54 tuổi Năm 1963, Bồng Sơn cũng khắp nước miền Nam lâm nạn Tôn giáo. Tồng Thống Ngô Đình Diệm đang muốn tiêu diệt Phật giáo, khủng bố chư tăng, đánh đập, chết chóc, và giam cầm chư tăng trong các hầm tối rất là dã man chưa từng có. Các Phật tử thuân thành, một số cũng bị như vậy, số khác bị lên danh sách (số đông vô kể) sẽ bị bỏ vào bao bố đem bỏ biển. – Đóng cửa chùa chiền, cấm Phật tử đến chùa…Tội ác tày trời vô cùng dã man ấy động đến thiên địa, đến nổi làng cụ Ngô Đình Khả (cha sinh nhà Ngô) bị sét đánh nứt một đường dài. – Chính tôi cũng bị ghi danh sách là Phật tử thuần thành, nhưng chưa đến giai đoạn bắt giam. – Thế rồi, “Thiên bất dung gian” , Trời chẳng dung thứ đó, nên chỉ trong mấy tháng, toàn dân biểu tình, phẩn nộ uất ức tột độ. Toàn quân đội nổi lên đảo chánh, chỉ thời gian ngắn, Ngô Đình Diệm, em là Ngô Đình Nhu (cố vấn) đều bị giết, em nữa Ngô Đình Cẩn-chúa Tể miền Trung bị bắt giam ở Khám Chí Hòa, một thời rồi cũng bị bắn. Thế là nhà họ Ngô 3 người bị giết, Triều Ngô tiêu diệt. Vụ này cũng do người Mỹ hành động. Nên vị tu sĩ cầm đầu vụ này cũng chẳng có quyền lợi gì trong vụ này ; không lại hoàn không, trở về chùa tiếp tục tu hành, ai nên tội thì có dân xử ? có trời đất biết. Tuy quý Thượng tọa được bổ nhiệm giữ quyền mới Phật sự một chùa, một tỉnh, một xả, huyện…nhưng rồi chẳng có tồn tại lâu dài gì. Vì thực dân ngự trị Đất Nước này, bao nhiêu quyền hành đều trong tay họ.
55 tuổi Năm 1964 Giáp Thìn , chiến tranh lần mò gần đến Bồng Sơn, đêm đêm đều có đạn móc chê bắn đến, nổ gần quận lỵ. Tôi thấy vậy, xin Nha Giám đốc Bưu Điện đổi đi nơi khác. – Dịp may đã đến khiến Nha Bưu điện Đà Nẵng chuẩn bị đổi tôi vào làm Trưởng Ty Bưu điện Tỉnh Phan Rang. Thế là giấy tờ đến trong ngày 25 Tết, tôi cũng muốn đi ngay, nên 26 Tết lên đường vào Phan Rang.
Tỉnh Ninh Thuận, Phan Rang là thị trấn, Tỉnh nhỏ Thành phố, cũng chẳng lớn. Trước xưa là đất của nước Chàm (Chiêm Thành) nay chỉ còn một vài cái Tháp bằng gạch nung ở ga Thap-Chàm, và một quận người Chàm độ chừng 40.000 ngườiở rãi rác xung quanh ga vào sâu trong rừng núi của dãy Trường Sơn. Phan Rang có nhiều gió, loại gío gì mà hay hút bụi. – Tuy nhiên, Ty Bưu điện được thiết lập như một dinh thự rộng rãi có vườn rộng thành quách xung quanh, mát mẻ, nền cao, vê ràng đa rộng bao bọc xung quanh, có mái che râm mát rất tiện nghi. – Nơi này là chỗ làm việc làm cuối cùng của đời công chức của tôi trải 35 năm thâm niên. – Phật sự ở Tỉnh hội Phan Rang do một thầy chánh đại diện người Huế, mới bổ nhiệm qua Pháp nạn vừa rồi. – Quí thầy tu sĩ lúc này được nhiều uy tín và quyền lợi như một Tỉnh Trưởng. – Cả Tỉnh Trưởng cũng phải nể và nuông chìu, như hồi trước chánh quyền nuông chìu Thiên chúa giáo. Tôi thấy vậy chỉ gặp thầy trụ trì vài lần, không dám múa rìu qua mắt thợ, nên đóng cửa tu hành, tham thiền nhập định tụng kinh trì chú mà thôi. Ẩn mình trong vỏ rùa để đợi thời. –
Thế rồi năm 1966, được lệnh Nha G.Đ.B.Đ cho về hưu trí, lúc ấy tôi 57 tuổi già.
Gia đình tại chùa Tỉnh Hội Phan Rang 1965 ( Ất tỵ )
Tại hồ sen Đình Quan Thánh Phan Rang
(Những người trong ảnh củ hồn ở đâu bây giờ
Thân cát bụi trở về cát bụi)
Tháp chàm 1965
Biển Tam quan 1964
(Những người trong ảnh củ hồn ở đâu bây giờ Thân cát bụi trở về cát bụi)
Thác Đà lạt
Lúc bấy giờ, vợ tôi đã sắp đặt sẵn một căn nhà trong một cái vườn 800m2 ở giữa Thành phố Đà Nẵng, gần sông, gần biển, gần trường học, gần chùa, gần chợ…rất tiện nghi, có trồng cây ổi, xoài, dừa, chuối…đã có quả. – Một đằng, các con lớn của chúng tôiđang học tại Sài Gòn. – Tôi mới lên đền đức Thánh Trần ở Phan Rang, đầu năm 1966 – xin một quẻ xăm ngài cho :
Nam qui Trân Châu, Bắc qui Diêm,
Niên lai kỷ bội hóa tài thiêm
Khuyến quân dĩ thử cầu điền xá,
Tâm dục đa thời hà nhật yên.
Một sự lạ lùng là đầu năm xin ngài cho quẻ xăm trên, giữa năm xin cũng quẻ căm đó, và cuối năm xin cũng quẻ đó. – Vì sao tôi xin đến 3 lần, vì thật sự tôi còn muốn ra Đà Nẵng, có nhà, vườn, cảnh củ, người xưa, nó tiện lợi cho cảnh già. Thế mà Thánh ngài tiên tri, nhất quyết ngài khuyên vào Nam (Sài Gòn). Vì thế, chúng tôi phải nghe Thánh. Về Đà Nẵng bán sở nhà vườn xong mới dời vào Sài Gòn.
Nhà ở Lý thường Kiệt Đà Nẳng 1960-1967
Có ngờ đâu, qua cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam 1975 thì biết rỏ là xăm ngài trăm phần trăm rất linh diệu. – Tiên tri, cuộc chiến sắp đến, nếu chúng tôi ở Đà Nẵng, con cái học ờ Sài Gòn, lúc đó Đà Nẵng rất nguy ngập, hầu hết nhân dân bỏ nhà trống xuống tàu thủy vào Nam, mặc dù mất hết gia tài sự nghiệp. Thậm chí hành lý đem theo, nữ trang đồ quí chút ít cũng bị bọn cướp trên tàu uy hiếp lấy sạch. – Trường hợp chúng tôi lúc đó cũng phải như vậy, không sao tránh khỏi.
1966 Thường việc xin xăm bói quẻ thiên hạ cho là dị đoan, mê tín, nhưng đôi khi nếu người xin “Phúc chí tâm linh” thì không thể nghĩ bàn được. – Vì vậy, tôi rất ít khi xin xăm, chỉ có việc gì quá quan trọng ; với trí Phàm, mình không sao nghĩ tới thì mới xin.
Thế là vào khoảng tháng 2, tháng 3 năm 1966 ( Sau Tết Bính Ngọ ) tôi thuê một chiếc xe vận tải lớn dọn hết đồ đạc vào Sài Gòn. Bán được ngôi nhà vườn ở Đà Nẵng, mới tạo một ngôi nhà khá tiện nghi ở Sài Gòn. – Tuy nhiên cũng phải mua đi bán lại ba bốn nơi mới dứt khoát ở ngôi nhà hiện tại la 120/25 đường Tôn Thất Hiệp-Phú Thọ-Quận 11, đến nay 1982 là 15 năm.
Sài Gòn là Thành phố lớn nhất Việt nam, là Đô thành của miền Nam
về Triều Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu…Dân cư quá đông đúc, gần 5 triệu người ; Đô thành thì quá sang trọng, đường sá rộng rãi, nhà cửa cao ngất một vài chục tầng. – Tuy nhiên cũng rất nhiều nơi, ngoại ô chẳng hạn, rất nhiều nhà cửa lụp xụp như ổ chuột, ở rất chật chội dơ dáy bẩn thiểu. – Một Thành phố sống xô bồ, kẻ sang thì sang đến tột bậc, người nghèo thì làm điều xằng bậy, cướp bóc trộm cắp đỉ điếm, xì ke ma túy đủ thứ lộn lạo, vàng thau lẫn lộn. – Sen bùn chung sống. Ai biết tu nhân tích đức, biết ăn ở có đạo đức thì giàu có bền lâu. Ai ăn ở phi đạo như trộm cướp của người về cũng mau giàu, nhưng chốc lát rất mau tan và khổ. Gương đời tỏ rỏ không sai.
Dù sao, Sài Gòn cũng là một phước địa cho ai sống theo chân lý đạo đức ; Khí hậu ôn hòa, không nóng lắm mà cũng không lạnh ; sáng thì nắng mát, chiều thì mưa cũng mát, bốn mùa xuân hạ thu đông gần giống nhau. Khí hậu ít thay đổi như miền Trung và miền Bắc, lạnh thì quá lạnh, nóng thù quá nóng.
Đến Sài Gòn, khi yên nơi ăn chốn ở, nhà cửa xong xuôi tôi mới tìm chùa Xá Lợi là chùa xây hồi Pháp nạn 1963 ; Chùa có thờ Xá Lợi của Phật. Chùa khá lớn, nội dung rất đầy đủ, thờ tự trang nghiêm bậc nhất nhị trong nước. – Chùa có một thư viện lớn chùng trên dưới3.000 Kinh sách. Tôi nghĩ mình nay hưu trí, thì giờ rảnh. Nếu cụ Chánh Trí (Mai Thọ Truyền) chấp nhận, mình sẽ phụ trách cái thư viện cho chùa, vừa kiếm công đức Phật sự, vừa đọc kinh sách, tìm hiểu thêm về giáo lý nhà Pjật. – Một ngày nọ, tôi gặp cụ Mai Thọ Truyền, tỏ ý với cụ. – Cụ hoan hỷ chấp nhận, cho thọ trai ở chùa với 3.000$ trợ cấp. – Tôi vui mừng được dịp tốt vừa tu hành, vừa học Phật.–Làm được 6 tháng thì gặp chiến tranh Mậu Thân 1968 bùng nổ ngay tại Sài Gòn.-
59 tuổi Súng nổ lung tung, bom nổ ở vài nơi, máy bay trực thăng bắn đạn lửa nhiều khu vựcbị cháy, lửa bốc ngất trời, mây đen tỏa khắp. Tâm hồn ai nấy đều khiếp sợ, chẳng biết trốn đâu.
Vì lẽ đó tôi phải về nhà với gia đình, trấn an tinh thần vợ con. – ba con trai nhỏ của tôi đang học Đại học và Trung học ở Sài Gòn, bị dính về vụ Mậu Thân, đều dần dần bị bằt giam tù.
1968 Tôi lúc đó 59 tuổi, phải đóng vai trò đi nuôi tù, mỗi tuần vài ba lần, rất quen thuộc với nhà lao với tù nhân chính trị. – Au cũng an phận vậy chứ biết sao. Rồi ba cháu dần dần bị đày ra Côn Đảo. Minh Trí 2 năm, Bảo Sơn 4 năm, và Hùng Sơn 5 năm. – Thật là xót xa đau khổ khi thấy con bị đày đọa, tra tấn giam cầm, đêm ngày khổ sở. “ Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. – Tôi có lần xin được phép ra thăm con tại Đảo Côn Sơn.
Thấy con đau khổ, tuy tuổi già cũng không quản khó nhọc vất vã, xin đi thăm con ở Côn Đảo, đi bằng tàu thủy, một ngày một đêm. Tàu nhỏ nên sóng gió chao nhồi, nằm trên boong tàu lăn qua lăn lại, nhồi như con mắm, mữa nôn lu bù, thật là vất vả.. Nhưng có hy sinh cho tình thương mới gọi là từ bi. Khi tàu đến bến, người thấy khỏe như thường. – Gặp mặt c ác con hình dạng tang thương, áo quần xơ xác rách rưới, vá víu nhiều lớp, đen trắng vàng nâu, thật là thê thảm. Xúc động bao nhiêu mà chẳng dám thốt ra lời. Thấy con, trong lòng như dao cắt mà bề ngoài tỏ ra tươi tỉnh, phấn khởi đem chút vui đến cho con trong cảnh vô cùng đau khổ. Thầm nghĩ trong bụng rằng : Nhân loại ơi ! Nhân loại sao mà ác độc đến thế, ác độc hơn cả thú vật. Hành hạ con người, qua tra tấn đủ thứ cực hình, rồi đem ra hầm cọp tay xích, chân xiềng, sống trong cái hầm tối kín mít không có không khí mà thở, lại thỉnh thoảng rắc vôi bột xuống cho nghẹt thở, ăn thì mỡi bữa một bát cơm thiu với chút mắm thúi hiị¨c nước muối. Ngày nọ qua tháng kia, mấy năm trời như vậy, tưởng e chúng sống không nổi, phải bỏ mạng vì nướcvì dân. – Nhưng, Luật trời còn chỗ thừa trừ, rồi c ác con cũng lần lượt được về, với con người thể xác tật bệnh, tinh thần mệt mỏi. – Phải về nhà ăn uống tỉnh dưỡng một thời gian khá lâu, chúng mới gọi là ra con người, nhưng cũng chưa được như thường. Tuy người như vậy, mà m ộng cứu nước độ dân của chúng cũng còn hy vọng. – Lần lượt, đứa đi trước, đứa đi sau vào chiến khu để hoạt động.
Thế rồi ngày 30/4/75, ngày Giải phóng miền Nam, chúng mới được về, nhưng còn môt người – Nguyễn Bảo Sơn hy sinh trong mật khu từ 18/1 Am lịch. Oi !!là đau đớn, là xót xa, là tức tối. – Cảm hoài ngày tử biệt của con Phú - Bảo Sơn.
Phú con ơi !! Trời đất nghiêng ngữa, vạn vật điêu tàn, mắt mũi hoa lên, đầu óc tán loạn, khi nghe tin con về chín suối. Con ơi ! Mẹ già còn đó chưa chút báo đền, sao nở tách đoạn cho đành. Ba đêm ngày mong đợi con, hằng ngày không ngớt cầu nguyện cho con nơi bãi chiến trường được Phật trời phù hộ yên lành. Hằng trông tưởng đến ngày đất nước thanh bình con về sum họp với đại gia đình. Có ngờ đâu nghe tin như sét đánh ngang tai, con bỏ mạng vì non sông đất nước, là một công đức vĩ đại, một hy sinh cao cả, nhưng sao khỏi làm cho ba mạ anh chị em ruột thịt của con bùi ngùi đau xót, đau xót cho đến lúc nào nguôi con ạ !!! Phú con ơi !! Thôi thì đành vậy, cuộc trần thế xưa nay vẫn thế, cỏi hòng trần chỉ tạm bợ mà thôi. Bỏ xác thân nhưng tinh thần con siêu việt, bởi vì nước vì dân con mới hy sinh tánh mạng. – Vì đại cuộc con xem nhẹ hình hài. Nay con hãy hướng về nơi Đạo Cảnh. Con niệm ắt được Đức Di Đà tiếp dẩn, tiếp hương linh con về cảnh an nhiên. Muôn đời con không sinh tư, không đua bơi dành dật, không khổ nảo, không qua đó sinh diệt – sống mãi, sống an vui cực lạc, nghe thuyết Pháp nghe chim thường nói đạo, nghe gió thổi vào lá cây dào dạt, như âm như tiếng Pháp nhiệm mầu, nhờ thế mà tâm con máu thâm đạo. Để tiến bộ, tiến lên đường giải thoát khỏi trầm luân trong ba cỏi sáu đường. Là Diệu Pháp, ba mong con sớm đạt để rồi sau trở lại hóa độ quần sanh và tất cả y như Phật Tổ con ạ !!
2/5/1970 Chùa Vạn Phước ở đường Tuê Tỉnh gần nhà nhất. Trước là một ngôi nhà lụp xụp, trong có thờ Phật trang nghiêm. – Tôi liền góp ý kiến với thầy Trụ Trì, có thể quyên góp Phật Tử xây dựng thành một ngôi chùa nguy nga để thờ Phật. Thầy Trụ trì và toàn chứng trong chùa rất hoan nghênh ý kiến ấy.
Tôi liền xin góp cúng mỗi tháng 2000$ để thọ trai ở luôn tại chùa, làm công quả cho đến ngày khánh thành. – Thế là ngày nào cũng lo việc chùa, sáng đến tối, đêm về ngủ ở nhà. Suốt một năm trời như vậy, làm thư ký lo giấy tờ, làm thủ quỹ giữ tiền thập phương cúng, làm trưởng ban tài chánh để cổ động khuếch trương cách làm cho quỹ càng ngày càng lớn. – Một năm trời, ngôi chùa đã thành một ngôi nhà lầu 4 tầng nguy nga tráng lệ, có nhà tăng, có tháp thờ Phật, có cả đại hồng chung mới đúc, cả cổng tam quan mới xây. – Trông thật ngoạn mục và hấp dẫn đối với người tin Phật.
Mục đích để có chổ tu hành và hoằng dường chánh Pháp. – Tôi tuy cư sĩ tại gia, nhưng cũng xin nhâp vào với chư tăng kiết hạ ba tháng năm 1976 khi chùa khánh thành.
Tuy lăng xăng với việc đời, việc gia đình vợ con. Nhưng việc đạo việc Phật sự ở chùa, việc công phu hai buổi ở nhà. – Tôi đã phát tâm Trường trai từ ngày 3 đứa con bị tù, từ tháng 7 năm Mậu Thân 1968, và đến năm 1971 tháng 9 – 12 canh Tuất, Hoà Thượng Vạn Phước 91 tuổi đã làm lễ thế phát xuất gia và ở tại chùa Giác Minh do Đại đức Trụ trì Minh Chánh hướng dẫn.
4/5/1973 Là ngày làm lễ xuất gia tại chùa Giác Minh (Tân vạn Biên hòa) do Đại Đức Minh Chánh chủ trì và hướng dẫn.
20/4 ÂL An cư tại chù Vạn Phước 3 tháng.
(1973)
6/7/73 Thọ giới sơ di tại chùa Linh Sơn đường Cô Giang – Sài Gòn.
1/1/74 Học thiền ở chùa chơn không với thượng tọa Thanh Từ một năm Trường, mỗi tháng học một tuần, học tọa thiền và học giáo lý, các kinh sách căn bản. Sau một năm học thiền và kinh sách, giáo lý ở tu viện chơn không (Vũng Tàu) với thượng tọa Thanh Từ, tôi mới thấy rõ chân trời đạo lý, và tưởng như mình đã gặp minh sư thiên hữu sau 3, 4 chục năm tu hành. Nhờ vậy, nhờ tu đúng phương pháp, đúng kinh sách nên thấy mau tiến bộ.
Tu viện chơn không ở trên một dãy núi đồi cao ở Vũng Tàu xoay mặt ra bờ biển, trên đồi núi trồng toàn dương liễu, cây cao bóng mát, phong cảnh thật là hữu tình, chùa làm trên triền núi khá cao, tu viện khá lớn có thể dùng chứa 3, 4 trăm tu sỉ học thiền. Xung quanh tu viện, xa xa gần gần lác đác nhiều ngôi cóc của các thiền gia nhập thất. Trong rất ngoạn mục và khá thanh tịnh tưởng tượng như tiên cảnh ở trần gian. Hoặc cảnh tịnh độ đâu đó. Thấy cảnh làm cho tâm tịnh, cảnh rất Đạo vị, có thể khiêu khích lòng mến đạo, mến sự yên lặng, mến sự thoát tục, mà ở trần gian biết bao cay đắng ê chề, tục lụy nặng nề đầy đau khổ bấy nay làm cho tâm bị xao xuyến không giây phút lặng ngưng.
Trong số học thuyền (thiền sinh) có một vị linh mục thiên chúa cùng học. Vị nầy độ chừng trên 50 tuổi, đẩu trọc, có râu trăng dài, măc áo tràng trắng. Theo ông cho biết; lúc mới mỏ khoá học thiền, có trên 70 linh mục cũng đăng ký xin nhập cuộc nhưng Thượng toạ ThanhTừ (Viện chủ) không thâu nạp được, vì thiếu chổ. Như vậy đạo thiền cũng phổ cập khá rộng rãi đến cả các đạo khác.
Tọa thiền trên một hòn đá lớn bằng phẳng, trên đồi cao ngất, dưới góc cây dương liễu, xoay mặt ra bờ biển, gió biển thổi hiu hiu, vừa giâm vừa mát, thiền sinh lim dim đôi mắt, vừa xét trong, vừa xem ngoài. Lâu lâu, mở mắt xem cảnh trời lúc bình minh, trời biển mênh mông, xanh biếc một màu, lác đác một số thuyền buồm trắng xóa đang thuận gió xuôi dòng trên mặt biển, đang sinh hoạt dể tìm nguồn sống, mấy đàn chim bạch điểu tung bay trên tời thành chữ nhơn ; bay liệng
1973 có vẻ an nhiên tự tại, đang tự do tìm nơi ẩn náu giũa bầu trời rộng rãi mênh mông. Nhà thiền thấy cảnh vật như vậy, tâm vẫn an nhiên như vậy. – Không bị cảnh mê tâm, tâm không vướng mắc với cảnh, thế rồi nhà thiền trở lại lim dim đôi mắt để quán xét nội tại – nội tại lúc đó, ngoài không bị nhiễm cảnh, trong không bị vòng rối tâm ; lưng thưng như trời sáng không mây, như trăng rằm thu nguyệt soi khắp mà chẳng có gì ngăn lại.
Học thiền mới được một năm như vậy, tưởng có thể tiếp tục luôn khóa 3 năm, không ngờ đến 30/4/75, ngày giải phóng –
Thiền viện cũng như thiền sinh, đều phải ngưng, thu xếp về nhà đóng cửa ma tu. Trong khoảng từ 30/4/75 đến1980 – về nhà, nhưng vẫn giữ giới Phật như khi ở chùa. Công phu tu tập không trễ nải, sáng từ 4 giờ đến 5 giờ (thiền), ngày nghiên cứu kinh sách, chiều 16 giờ (thiền) đến 17 giờ, từ 17 giờ đến 17giờ 40 công phu cúng Phật và thí thực cô hồn. – Từ năm 1981 đến nay (tháng 7/1982) vẫn liên tục cùng 3 ông bạn già, cụ Nguyễn Văn Cẩn 72 tuổi, cụ Kiều Quyền 71 tuổi, cụ Đặng Sơ 65 tuổi cựu công chức hưu trí học kinh Làng Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang. Cùng nhau tham khảo và tu hành mỗi tuần 2 lần : thứ hai và thứ năm, đều đều không kỳ nào thiếu. Học kinh thảo luận, nhắc nhở nhau theo lời Phật dạy trong kinh mà tu hành.
73 tuổi 20/10/82, sau khóa học kinh Kim Cang (4 tháng) mỗi vị làm một số kệ để kết thúc
1) Bốn tưởng không bằng ngộ tự tánh
Bồ Đề Niết bàn như hoa đốm chứng chơn không
2) Như như bất biến, tùy duyên thuận
Tịch tịch, tỉnh tỉnh ánh trăng soi
3) Bốn tưởng đều không, chơn thật ngã
Năm uẩn tiêu trừ, kiến Như Lai
4) Vô trụ sinh tâm, tâm sáng suốt
Khai mê tỏ ngộ tánh quang minh
5) Chấp trước lục trần mê càng nặng
Sáu căn không nhiễm ngộ càng sâu
6) Kim Cang không sáng tối
Bát Nhã thoát có không
Giác mê, mê tự diệt
Biết vọng, vọng tự tiêu
Chơn không, không biểu kiến
Tự tánh, tánh bổn chơn.
7) Kim Cang thường minh siêu
Bát Nhã vốn siêu minh
Phân biệt phân biệt tánh
Khó nhận biết chơn như
8) Kim Cang bất diệt, Bồ Đề bất sanh
Bát Nhã hiện tiên bằng phương đốn ngộ
Tự tánh diệu minh, chơn như bất động
Niết bàn tịch tỉnh bằng tiện giác mê.
15/11/82 - Hành thiền_
Ru ngủ tâm hồn, ngủ mà thức
Ngủ thức, thức ngủ giữa hai lúc
Tỉnh táo luôn luôn tâm sáng suốt
Trăng rằm rạng rỡ ánh quang minh.
17/11/82 Tự kiểm tự phê, tâm sáng suốt
Tự soi tự chiếu tánh quang minh
Cư trần bất nhiễm tâm thường giới
Tịnh tâm chẳng vọng tánh thường chơn.
23/1/83 1)Kệ viết sau khi học kinh viên giác
Tự tánh Bồ Đề chơn giác ngộ.
2)Giác tận chơn không danh viết giác
Minh cùng ngã pháp thị giác viên.
3) Chơn như thanh tịnh tánh trần viên
Giác ngộ Tâm linh ấy Thánh tiên
Bồ Đề diệu tịnh tâm thường tịch
Sở tri thiên hảo tánh giác viên.