13-10. Lại Ngày Doanh NhânViệt. Lại phải nhớ đến một người ĐỘC , LẠ đã đi xa, Nguyễn Trần Bạt
Kì I : XUÂN BA - NHỌC NHẰN - TUỔI TRẺ
Xuân Ba ( XB) Thưa ông, tôi không muốn dùng cụm từ góc nhìn hay khảo sát hoặc nhận xét, nghiên cứu mà tạm dùng cụm từ chiêm nghiệm bởi từ một cậu bé bán nước chè ở ga Hàng Cỏ, bằng nghị lực hiếm có, ông đã gắng gỏi trở thành và lĩnh vực nào, cương vị nào cũng thành đạt và nổi tiếng những là doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả, nhà sáng lập InvestConsult Group… Xin ông chia xẻ chút ít thông tin?
Hỏi: Nhân ngày doanh nhân Việt Nam, chúng tôi muốn có cuộc trò chuyện với ông để qua những chiêm nghiệm của ông, có một hình dung về chân dung doanh nhân Việt Nam?
Trả lời: Thời đại bây giờ thay đổi nhanh quá, từ đổi mới đến giờ đã bắt đầu có thế hệ doanh nhân thứ ba. Thế hệ của tôi là thế hệ chuyển đổi, thế hệ thức tỉnh, cày vỡ các khái niệm cho nên chúng tôi gần với học giả, đi theo hướng học giả. Thế hệ thứ hai là thế hệ khoa học kỹ thuật, những người bắt đầu kinh doanh trên cơ sở những sáng kiến công nghiệp hoặc công nghệ. Thế hệ thứ ba là các nhà tài chính, nhà đầu tư. Hiện nay nhiều người không hiểu về tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam nên chê bai là chậm quá. Còn tôi thì luôn luôn lo ngại rằng chúng ta phát triển nhanh quá, chưa kịp ngưng đọng các yếu tố để tạo ra ranh giới rõ ràng giữa các thế hệ. Các lực lượng làm kinh tế ở Việt Nam phát triển rất nhan, những trường hợp các doanh nhân Phạm Nhật Vượng, Trần Đình Long, Đoàn Nguyên Đức… là những ví dụ có chất lượng đột biến.
Nói về chuyện này rất thú vị. Với tư cách là một người nghiên cứu, tôi cực kỳ ngạc nhiên trước tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất và kinh doanh. Có thể nói giai đoạn đổi mới vừa rồi là giai đoạn nén của sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam và nó đã phát triển sang cả khía cạnh chính trị. Trong cuộc trao đổi ở Đài tiếng nói Việt Nam cách đây vài ngày, tôi nói đến việc Đảng ta cần phải làm rõ một chức năng trong cương lĩnh chính trị là “quản lý chính trị”, không thể lơ mơ như giai đoạn vừa rồi. Anh đang đi vào câu chuyện mà tôi cho là nòng cốt của giai đoạn này, đó là lực lượng doanh nhân xuất hiện như thế nào trong lịch sử phát triển hiện đại của Việt Nam.
Hỏi: Thưa ông, tôi không muốn dùng cụm từ góc nhìn hay khảo sát, hoặc nhận xét, nghiên cứu mà tạm dùng từ chiêm nghiệm, bởi từ một cậu bé bán nước chè ở ga Hàng Cỏ, bằng nghị lực riêng của mình ở lĩnh vực nào, cương vị nào ông cũng thành đạt và nổi tiếng, doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả. Xin ông chia sẻ chút thông tin với bạn đọc Tiền phong về cá nhân mình?
Trả lời: Tôi rất ngượng khi phải nhắc lại câu chuyện bán nước chè rồi dùng cái xuất phát đó như một bàn đạp để nhảy vèo một cái trở thành Nguyễn Trần Bạt ngày hôm nay. Nói như thế có thể thuận với cách thức của một số phương tiện truyền thông nào đó, nhưng không khoa học. Trước khi bán nước chè, tôi là con của một gia đình giàu có. Ông ngoại tôi là Chủ tịch hội tín dụng Trung Kỳ, ông nội tôi là chủ những điền trang rộng 4 - 5 ngàn hecta. Có thể việc bán nước chè kích thích tôi một chút, nhưng điều làm cho tôi nhảy lên không phải bắt đầu từ việc ấy, mà từ ý chí khôi phục lại thanh danh của gia tộc chúng tôi.
Chúng ta luôn luôn có suy nghĩ ai cũng có thể tạo ra đột biến, nhưng quên mất rằng Chúa cấy các yếu tố đột biến trong máu của mỗi một con người, cái đó gọi là gen. Vì thế, để nghiên cứu công nghệ phát triển của mỗi con người có lẽ chúng ta phải nghiên cứu sâu hơn cấu trúc tinh thần của nó. Tôi đã viết một quyển sách trong đó xây dựng một lý thuyết về miền tinh thần của con người.
Bán nước chè ở ga Hàng Cỏ là một kỷ niệm dễ thương trong cuộc đời tôi. Năm 1954, khi hòa bình lập lại, gia đình chúng tôi từ Nghệ An “vượt biên” về Hà Nội. Chúng tôi thuê được một căn nhà gần ga Hàng Cỏ. Mẹ tôi ra ga chạy chợ, còn chúng tôi thì ra ga để bán nước chè. Tất cả mọi người đều làm như thế. Tôi nằm trong số hàng trăm đứa trẻ ở các phố khác nhau như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Đỗ Hạnh, Vũ Lợi đổ về ga Hàng Cỏ. Vũ Lợi là một phố nổi tiếng bởi ở đấy có Trần Dần. Yết Kiêu cũng là một phố nổi tiếng bởi ở đấy có Văn Cao. Tôi ở trong khóm phố có những người như vậy cư trú cho nên có lẽ trong máu của tôi cũng có một chút gì đó Văn Cao, một chút gì đó Trần Dần, một chút gì đó Lưu Cầu. Bán nước chè là một chi tiết lãng mạn và có thể dùng để viết tiểu thuyết được nếu như tôi có tài như Marxim Gorky.
Hỏi: Gia cảnh nhà khi ấy có gì đột biến?
Trả lời: Có, đấy là cải cách. Mẹ tôi từ một người đàn bà sang trọng trở thành người đi bán dầu, bán gạo để kiếm sống vì không còn con đường nào khác. Có lẽ cách mạng tạo ra cho mỗi con người những cơ hội để trở thành người lao động chân chính.
Hỏi: Đột ngột ngoặt và cũng kịp bắt ngay vào nhịp đời lam lũ. Về mặt kiếm sống, gia đình ông có gặp khủng hoảng?
Trả lời: Vô cùng khủng hoảng. Lúc bấy giờ, bằng mọi giá phải tìm cơ hội để sống. Tôi học phổ thông ở một trong những trường danh giá thứ nhì Hà Nội lúc bấy giờ là trường Việt Đức, nhưng tôi đã phải bỏ học năm cuối để đi kiếm sống. Cuộc sống vô cùng vất vả. Gia đình tôi có 6 anh chị em. Cha tôi là một nhà hoạt động chính trị tham gia cách mạng trước thời kì khởi nghĩa. Vì ông nội tôi là địa chủ nên cha tôi không thành đạt được và trở thành một người đảng viên yêu Đảng một cách đau khổ. Mẹ tôi là một cán bộ đi làm ở cơ quan nhà nước. Bà còn có một nghề làm thêm là buôn bán sách báo cũ. Chính cái nghề làm thêm ấy đã hỗ trợ tôi trở thành một học giả như hôm nay. Là một người khá có học, giỏi tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc và tiếng Anh, cha tôi biết chọn lựa giữa cái đống giấy vụn mà mẹ tôi buôn bán những tác phẩm văn học vĩ đại của Guy de Maupassant, Racine, Corneille, Molliere… Thời đó, cả Hà Nội quẳng những thứ ấy đi để nhanh chóng kiếm ít tiền mà sống. Nhờ thế, tôi đã nhặt nhạnh được trong đống giấy vụn của mẹ tôi những trí tuệ quý giá của nhân loại. Tôi không đủ tiền để giữ nó nhưng tôi đủ sức để đọc nó và biến nó thành cái vốn của mình. Cha tôi đau dạ dày, cần phải đấm lưng, xoa bóp. Tôi cung cấp cho ông dịch vụ xoa bóp, còn ông cung cấp dịch vụ bồi đắp trí tuệ cho chúng tôi bằng cách dịch cho nghe những tác phẩm văn học của các nhà văn ấy... Tôi đã làm quen với nền văn học cổ điển Pháp trên lưng cha tôi, một người đau dạ dày.
Hỏi: Cụ thân sinh làm nghề gì?
Trả lời: Thời kỳ tiền khởi nghĩa ông là lãnh đạo một mặt trận của một tỉnh, nhưng từ sau cải cách ruộng đất thì sự nghiệp của ông đi xuống và ông về nhà.
Hỏi: Xin lỗi, các cụ có thọ không?
Trả lời: Không thọ lắm. Cha tôi mất năm 65 tuổi, mẹ tôi mất năm gần 90 tuổi.
Hỏi: Ông chịu ảnh hưởng của cụ bà hay cụ ông?
Trả lời: Tôi là người đủ trí tuệ và đủ kiến thức để thiết kế ra miền tinh thần của riêng mình. Tuy nhiên tôi có chịu ảnh hưởng của cả cha và mẹ. Xét về trí tưởng tượng, tôi chịu ảnh hưởng của cha tôi. Tôi biết cực kỳ rõ nền văn học Pháp, văn học Anh và văn học Nga (riêng văn học Nga không phải do cha tôi dạy mà tôi tự học), Maxim Gorky, Leo Tolstoi, Chekhov... Tôi chịu ảnh hưởng cả tính thực dụng của mẹ tôi. Trong quan niệm của bà, chồng và con phải sống. Quan niệm của cha tôi là các giá trị cơ bản của đời sống tinh thần gia đình phải sống. Vì chịu ảnh hưởng của cả cha lẫn mẹ nên tôi khác mẹ tôi ở chỗ, với mẹ tôi mọi người phải sống theo nghĩa đen còn với tôi mọi người phải sống theo cả hai nghĩa.
Hỏi: Trần Bích San có câu “Nhân bất phong sương vị lão tài”. Người ta phải trải qua những khốn khó thì mới thành tài năng được. Nói thêm một chút về doanh nhân Việt Nam thế hệ mới hiện nay, có lẽ nhiều người không được trải qua thử thách, tự nhiên giàu sổi lên một cách vô lý. Cho nên khi cầm đồng tiền họ không biết nó là như thế nào?
Trả lời: Thưa anh, sự giàu lên một cách vô lý là sự đau khổ, là sự từng trải rất quan trọng và chúng ta chớ bao giờ nghĩ rằng họ không đau khổ. Nỗi đau khổ ấy có khi còn lớn hơn đau khổ vì sự nghèo khổ của tôi. Sự thiếu học là nỗi bất hạnh cho mọi con người.
Hỏi: Nó là mẫu số chung?
Trả lời: Đúng thế. Đừng nói đến sự thiếu học của một vài người mà hãy nói về sự thiếu học như là nỗi bất hạnh phổ quát của con người. Như thế chúng ta mới biết yêu, biết cảm thông và biết các em, các cháu thiếu gì để dạy chúng nên người. Cho chúng lương cao thôi chưa đủ, phải làm thế nào để chúng trân trọng từng li, từng tí các giá trị mà tôi gọi là các phổ quát. Khái quát hơn nữa, Đảng ta phải biết chăm sóc các giá trị xã hội, cung cấp cho xã hội những điều kiện để người ta thoát khỏi thân phận tủi hổ thiếu học của mình. Tôi tuyệt đối không kì thị con người về mặt học vấn. Tôi cho rằng con người ai cũng tiềm ẩn một khát vọng nào đó liên quan đến nó.
Hỏi: Nguyễn Trãi có câu “họa phúc hữu môi phi nhất nhật”, tức là cái họa, cái phúc không phải đến một buổi mà nó có căn nguyên từ trước. Vậy thì sự thành đạt, thành công của ông có căn nguyên chứ?
Trả lời: Tôi không bao giờ xem sự thành công là ngẫu nhiên cả. Sự thành công chỉ xuất hiện một cách chắc chắn khi nó là kết quả của một sự cố gắng liên tục và kiên nhẫn của con người. Nó chỉ ngẫu nhiên đối với người quan sát và họ cũng chỉ quan sát một cách ngẫu nhiên. Nếu quan sát một cách thực lòng, quan sát có nghiên cứu và quan sát để dạy con em mình thì không có bất kì thành đạt nào là ngẫu nhiên cả. Tôi kính trọng những nhà chính trị thành đạt, những nhà kinh doanh thành đạt và những nhà văn hóa thành đạt, tôi chỉ coi thường những kẻ giả vờ. Con người phải phấn đấu có đủ trí tuệ để phân biệt cái có thật và cái giả vờ. Xã hội chúng ta hơi nhiều cái giả vờ, nó làm cho những cái thật lép vế. Báo chí của các anh phải làm thế nào để những cái thật không lép vế.
Kỳ II NĂNG LỰC THỒ KHÔNG PHẢI LÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NGỰA
Hỏi: Bây giờ chúng ta chuyển sang vấn đề tiếp theo. Bằng những chiêm nghiệm của một người trong cuộc, ông nhận xét gì về một lộ trình có thể gọi là nhọc nhằn của doanh nhân Việt? Có chuyện hình thành cái gọi là doanh nhân Việt một cách tất tả không? Đó là do yêu cầu thực tế hay do điều gì? Sự hình thành, tồn tại và vị thế doanh nhân Việt đang ở đâu trong mặt bằng hiện nay?
Trả lời: Tôi không đồng ý với anh là có một lộ trình nhọc nhằn đối với các doanh nhân Việt. Mọi doanh nhân trên thế giới này đều nhọc nhằn, mọi doanh nhân trên thế giới này đều tủi thân. Những doanh nhân thành đạt như Donal Trumph khi ứng cử Tổng thống mới bộc lộ tất cả các thiếu hụt của mình và thiên hạ đã có những thể hiện coi thường ông ấy. Doanh nhân là người làm ra sự giàu có và là người giàu có, cho nên họ nhận được sự đố kỵ của tất cả phần còn lại của cuộc sống. Ai nhận được sự đố kỵ cũng đều nhọc nhằn. Doanh nhân Việt Nam cũng như thế, không có gì đặc biệt hơn. Chỉ có ở phương Tây dù có đố kỵ thì người ta cũng không làm gì được nhau, còn ở chúng ta thì người ta rất dễ để xui người này, người kia đánh cho một trận.
Tất cả vấn đề là ở chỗ phải xây dựng thể chế như thế nào để doanh nhân dù bị ghét mấy cũng không bị đánh một cách ngẫu nhiên. Thể chế kinh tế thị trường chính là một môi trường mà ở đấy có ghét mấy người ta cũng không đánh doanh nhân một cách vô lối.
Hỏi: Ý nhọc nhằn tôi muốn nói là tầng lớp doanh nhân Việt Nam ra đời khi nước ta còn là thuộc địa của Pháp, họ có được khuyến khích không, có bị chèn ép, có lép vế không? Tầng lớp cai trị có muốn phát triển thương mại ở một xứ thuộc địa thế này không?
Trả lời: Lứa tuổi của tôi có cơ hội quan sát tất cả các vĩ thanh của nền kinh tế thời kỳ thực dân. Cha tôi cũng từng là một nhà kinh doanh, cho nên nếp nhà cũng cho tôi hiểu được chuyện ấy. Thời ấy chúng ta đấu tranh giai cấp, kháng chiến chống thực dân phong kiến, chúng ta cần tuyên truyền để đạt được mục tiêu như vậy nên đôi khi cũng chính trị hóa một số quan hệ xã hội. Có lẽ cũng đã đến lúc phải thay đổi cách mô tả. Đương nhiên ở đâu kinh doanh cũng phải cạnh tranh khốc liệt, ở đâu các nhà kinh doanh cũng dựa vào nhà cầm quyền để chèn ép lẫn nhau. Đấy là quy luật muôn đời của cạnh tranh. Nếu không có nó thì không phải là kinh tế thị trường.
Tôi không nghĩ là có gì thật đặc biệt, và cũng không nên bi kịch hóa, coi doanh nhân như là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân. Có lẽ đến lúc chúng ta phải thay đổi cách nghĩ. Nếu cứ duy trì việc bi kịch hóa lịch sử Việt Nam như vậy, chúng ta không làm cho Việt Nam phát triển một cách hồn nhiên được.
Cái mà tôi cảm nhận thấy là độ tự do trong cạnh tranh thời Pháp thuộc không kém gì độ tự do chúng ta đang có bây giờ, nếu không muốn nói là hơn. Nói lành mạnh hơn thì cũng không hoàn toàn đúng. Phải nói rằng, nó chịu ảnh hưởng của các quy tắc thị trường rõ rệt hơn, kể cả so với bây giờ.
Trở lại với hiện tại, tôi thấy mặt tích cực cũng như mặt tiến bộ của đổi mới ở Việt Nam là doanh nhân đi theo các nhà chính trị để hội nhập và họ đang dần dần hội nhập. Đã bắt đầu có những tên tuổi xuất hiện trên tạp chí Forbes 500, bắt đầu có những doanh nhân nổi tiếng ở khu vực châu Á – vành đai Thái Bình Dương. Rất nhiều người chỉ trích chủ nghĩa cộng sản, chỉ trích Đảng cộng sản. Tôi không làm như vậy bởi vì tôi hưởng lợi từ sự đổi mới ấy. Tôi là người giàu có lên bằng đổi mới, nhưng tôi không tìm cách làm quen ông nọ bà kia để lợi dụng mà dùng trí tuệ của mình để tận dụng các mặt tích cực của chính sách đổi mới và nhờ đó mà giàu có lên.
Tuy nhiên, cũng không nên nhìn sự thay đổi nhanh chóng hiện thời mà tưởng rằng chúng ta sẽ thành rồng, thành phượng một cách nhanh chóng. Có lần tôi đến Bộ thương mại Anh dự một cuộc tọa đàm, người ta hỏi tôi Việt Nam là một con mèo ngủ (sleeping cat) hay một con hổ đang thức dậy (wake up tiger). Tôi nói thẳng nếu không tiếp tục duy trì đánh thức nó một cách kiên nhẫn thì nó sẽ ngủ lại. Doanh nhân của chúng ta cần phải thức tỉnh. Không phải mọi người đều tiên tiến và đều có ý chí ghê gớm giống Phạm Nhật Vượng, Trần Đình Long, Đoàn Nguyên Đức… Ngay cả những người đã sai, thậm chí đã vào tù như Nguyễn Đức Kiên tôi cũng khâm phục, bởi họ là những người dám dấn thân. Khuyết điểm, phạm pháp thì cứ trừng phạt, nhưng phải nói rằng đấy là những gien quý cấu tạo ra lực lượng quan trọng thứ nhì của đất nước này, đó là doanh nhân. Tôi coi doanh nhân là lực lượng chính trị quan trọng thứ nhì ở Việt Nam.
Hỏi: Hình như trong quá khứ gần có sự đứt quãng và lộ ra những khoảng trống bởi thiếu vắng những tầm cỡ như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô…? Lý giải sự thiếu vắng của những doanh nhân lớn này, có ý kiến cho rằng do đặc thù của các cuộc chiến tranh vệ quốc, do đặc thù của thể chế, của cung cách quản lý vv…? Ý kiến của ông như nào?
Trả lời: Có thật những cái tên anh vừa nêu là những đầu tàu không? Tôi cho rằng đấy là những ngôi sao, không phải là đầu tầu, bởi họ không có lực kéo. Họ không phải là cỗ máy động lực, họ là những tên tuổi lớn, thành đạt, nhưng chưa có vai trò động lực. Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, Bạch Thái Bưởi… là những đột biến chứ không phải là hệ quả tất yếu của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Làm xuất hiện kinh tế thị trường xét về mặt thực tế kinh tế và chủ nghĩa tư bản xét về mặt tư tưởng phát triển và có sự lôi kéo xã hội, đó mới là cỗ máy động lực. Còn đây là những kinh doanh cá lẻ, là những sự thành đạt ban đầu, nó chưa kịp cấu tạo thành chủ nghĩa tư bản Việt Nam.
Năm 1945 cách mạng vô sản thành công nhanh đến thế là vì chủ nghĩa tư bản chưa hình thành thật sự trong nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta đang quảng bá thương mại, quảng bá kinh tế cho nên chúng ta cũng tô các nhân vật lịch sử này như là những trường hợp tiêu biểu có chất lượng động lực. Tôi không nghĩ như vậy. Họ cũng giàu có, cũng ghê gớm nhưng không phải là cỗ máy động lực. Họ vẫn là những nhà thương mại, nhà buôn là chính chứ chưa phải là nhà công nghiệp. Bạch Thái Bưởi mới chỉ nổi tiếng như một ví dụ về công nghiệp vận tải, nhưng những sự phát triển như vậy không đủ để tạo thành một trào lưu kinh tế ở Việt Nam. Cho nên nó không có sức mạnh, nó bị bóp chết. Nếu nó trở thành kinh tế tư bản chủ nghĩa thật sự thì không dễ bị bóp chết như thế. Kể cả sai lầm như đại cách mạng văn hóa, đại nhảy vọt cũng không giết chết được các năng lực kinh tế nếu nó là những dòng năng lượng thật sự.
Người Việt chưa chuyên nghiệp bao giờ trong lĩnh vực kinh doanh và kinh tế. Nếu đem so với các ví dụ cụ thể của ngày hôm nay, lúc tôi với anh ngồi đây thì những người chúng ta vừa nhắc tên không giỏi hơn và không nghê gớm hơn những Phạm Nhật Vượng, Trần Đình Long, Đoàn Nguyên Đức, Thái Hương... Tôi không thân thiết gì, không có quan hệ gì với họ nhưng tôi rất nể họ. Đấy là những doanh nhân mà chúng ta buộc phải nghĩ đến, nói đến họ một cách cẩn thận. Họ chính là kết quả tự nhiên của sự phát triển kinh tế thị trường sau 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Chính họ chứ không phải những người như tôi. Tôi là thế hệ ngủ gác bếp. Đổi mới đánh thức tôi dậy. Tôi thông minh nên kiếm được rất nhanh, nhưng tôi co về trạng thái gác bếp của tôi cũng nhanh không kém, vì tôi không có phẩm chất của Phạm Nhật Vượng, Đoàn Nguyên Đức, Trần Đình Long… Theo quan niệm của tôi họ là những người “anh hùng dân sự” thật sự. Trong sách của tôi có khái niệm “lòng dũng cảm dân sự”. Đấy là những người có lòng dũng cảm dân sự khổng lồ và họ tạo ra những sự nghiệp kinh tế khổng lồ buộc chúng ta phải kính trọng. Họ có thể có cái sai về mặt này, mặt khác, có thể có một số khuyết tật, nhưng tất cả những thứ ấy không làm lu mờ phẩm chất anh hùng của họ.
Tôi nghĩ không nên mất thì giờ để quay lại ngưỡng mộ những tên tuổi mà anh vừa nói, bởi vì ngay cả những tên tuổi ấy cũng là do mô tả. Khi nhà nước của chúng ta hình thành thì họ không còn nữa, không có vết gì.
Gia đình tôi ra Hà Nội thời điểm năm 1954, ngày đầu tiên chúng tôi ở trong một cái gara của nhà bác Trịnh Văn Bô ở 24 Nguyễn Gia Thiều, tôi không biết lý do gì mà gia đình tôi lại có cơ hội ở trong gara ấy. Sau đó chúng tôi thuê một buồng trong ngôi nhà của bà Dương Văn Đàn, sau này trở thành nhà của nhà nước. Nói như thế để anh hiểu rằng ngay từ bây giờ chúng ta phải nghiên cứu thế hệ này, nếu không, đến khi phải viết về họ chúng ta sẽ phải phỏng đoán giống như phỏng đoán về Trịnh Văn Bô hay Bạch Thái Bưởi.
Chúng ta không phân tích được các ưu điểm công nghiệp của Bạch Thái Bưởi, các ưu điểm thương mại của Trịnh Văn Bô, chỉ nhắc đến việc bà ấy hiến tặng một ít vàng. Chuyện tặng vàng cho cách mạng có thể kể như một thành tích chính trị, nhưng nó tuyệt đối không phản ánh năng lực kinh doanh. Mô tả giá trị kinh tế của Trịnh Văn Bô bằng chuyện hiến tặng cách mạng một ít vàng là một mô tả sai. Chúng ta bảo họ yêu nước, yêu cách mạng, tôi không hề phủ nhận chuyện ấy. Nhưng đấy là mô tả những người yêu nước chứ không phải những nhà kinh doanh. Mô tả năng lực thồ thì không làm người ta thấy được đặc trưng của con ngựa. Năng lực thồ là đặc trưng của con la, còn đặc trưng của ngựa là để người hiệp sĩ cưỡi lên.
Mô tả lòng yêu nước của các doanh nhân thì không tạo cho họ cơ hội trở thành hiệp sĩ, trở thành người hướng dẫn cưỡi ngựa đối với các thế hệ sau. Tôi không có phân tích nào về Trịnh Văn Bô, Bạch Thái Bưởi như là các khuyến dụ cho thế hệ doanh nhân Việt Nam bắt chước. Bắt chước yêu nước thì dễ nhưng bắt chước để trở thành một doanh nhân vĩ đại vô cùng khó.
Kỳ III THẬT THÀ LÀ CHA… THẤT BẠI
Hỏi: Trở lại sự chiêm nghiệm một chút. Xin lỗi, thuở hàn vi cũng như vị thế thành đạt bây giờ, ông đã từng bị công an, thuế, ngân hàng, hải quan… và cả báo chí ( mè nheo quảng cáo?) hành chưa? Doanh nhân và doanh nghiệp có cần thiết phải trải qua hay vượt thoát những vụn vặt giăng mắc dường như là bất khả kháng, bất thành văn ấy? Và nữa, có ý kiến cho rằng doanh nhân không song hành với chính trị và không biết chiều mỵ các nhóm lợi ích thì khó mà tồn tại. Ông lý giải vấn đề này thế nào?
Trả lời: Vấn đề không phải là chấp nhận mà ở đâu cũng thế, không có gì tách rời chính trị, không có gì tách rời nhà nước, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. May mắn cho tôi là tôi cũng gặp tất cả những điều anh liệt kê ở câu hỏi, nhưng cho đến nay đã 70 tuổi tôi không có bất kỳ chút bất mãn hay căm ghét nào đối với công an, thuế vụ. Họ là những người bạn đường trong cuộc sống của tôi. Bây giờ có những người thành đạt lên đến thứ trưởng, bộ trưởng, khi nhìn thấy nhau chúng tôi cười. Chúng ta phải xem công an, thuế vụ, các lực lượng làm phiền nhiễu một người kinh doanh là chuyện bình thường. Cuộc sống thân thiện hơn, thú vị hơn, thực hơn những gì báo chí nói, hơn những thứ mà những người chống đối nói. Tôi không có gì để căm thù những người mà anh vừa nói. Tôi xem những va chạm ấy như những kỷ niệm phải trải qua của một nhà kinh doanh đi từ kinh doanh nhỏ lên kinh doanh lớn.
Ví dụ, đôi khi chúng tôi cũng có vướng phải những chuyện ở phường, ở quận, nhưng anh em khi gặp chúng tôi thì họ xưng “em”. Điều ấy đối với chúng tôi cũng là một phần thưởng, bởi vì doanh nhân cách đây 20-30 năm có được coi ra gì đâu. Bây giờ truyền thông cùng với sự lãnh đạo của Đảng ta làm cho doanh nhân trở thành một lực lượng chủ yếu của đời sống. Tôi nghĩ thôi thì kiên nhẫn chịu đựng một số sự phiền hà và chúng tôi được bù lại bằng sự ca ngợi như một lực lượng cần thiết của sự phát triển. Tôi không thấy có gì phải bực dọc.
Hỏi: Doanh nhân Việt đồng thời cũng là tính cách Việt luôn song hành cũng như tiềm ẩn le lói những đức tính tốt cũng như dai dẳng cố hữu những thói xấu. Ông có tin rằng khi can dự, nhập cuộc vào những cuộc chơi lớn, những trận đánh lớn như các Hiệp định thương mại những WTO, FTA, VCUFTA, FTA với EU và sắp tới là TPP… doanh nhân Việt sẽ hòa nhập với thông lệ quốc tế của doanh nhân quốc tế với mẫu số chung “thật thà là cha quỷ quái”?
Trả lời: Về mặt này, tôi cũng không nghĩ giống anh. Thật thà không phải là cha quỷ quái. Thật thà là cha thất bại. Người ta không thể thật thà một cách đơn giản được. Trong đời sống kinh tế quốc tế lúc nào cũng phải cảnh giác, lúc nào cũng phải học hỏi. Nên nhớ rằng thật thà đơn giản và thật thà một cách có khoa học là khác nhau. Thật thà trong hội nhập là thật thà có khoa học. Quỷ quái của thương trường quốc tế cũng là quỷ quái của học vấn chứ không phải quỷ quái của lừa đảo. Sự lừa đảo bị lên án ở mọi nơi trên thế giới, nhưng sự thật thà đơn giản cũng không được biểu dương.
Có ba thứ chi phối trong đời sống kinh tế thị trường. Thứ nhất là sự hợp lý vĩ mô. Sự hợp lý vĩ mô là sự hợp lý của chính sách của Đảng và Chính phủ, không có nó chúng ta không phát triển được. Thứ hai là sự hợp lý vi mô, tức là sự hợp lý của các công cụ điều hành doanh nghiệp. Cái này gắn liền với giáo dục. Trường học không đào tạo, con người sẽ không biết điều hành các doanh nghiệp của mình. Thứ ba là sự hợp lý văn hóa. Nếu lúc nào cũng đi tìm sự đúng đắn vĩ mô và vi mô thì chúng ta sẽ căng thẳng, không kinh doanh lâu dài được. Kinh doanh lâu dài là kinh doanh theo các tiêu chuẩn của thói quen, của văn hóa. Biến các hành vi kinh doanh thành các hành vi có tiêu chuẩn văn hóa là làm giảm nhẹ sự căng thẳng của đời sống kinh tế, tạo ra không khí hòa thuận của đời sống kinh tế.
Tôi có bài viết trong đó nói rằng hãy trả lại sự yên tĩnh cho các trường học, bố mẹ cãi nhau đừng để ảnh hưởng đến con, người lớn cãi nhau về giáo dục đừng để ảnh hưởng đến trường học. Tôi nghĩ kể cả đối với kinh doanh cũng thế, hãy để nó yên tĩnh. Tất cả các sai lầm sẽ được học một cách âm thầm, sửa một cách âm thầm và đổi mới một cách âm thầm. Tôi rất thích nghị quyết trung ương XI, trong đó khẳng định ý chí phải sửa đổi một cách kiên quyết, kiên nhẫn đồng bộ tất cả các sai lầm. Nói thì có người sẽ thắc mắc tại sao lại nói đến chính trị trong câu chuyện này, nhưng nếu ai định tách rời chính trị ra khỏi kinh doanh thì người đó sai ngay từ đầu.
Hỏi: Theo ông sự chuyển biến sẽ theo chiều hướng nào?
Trả lời: Tôi tuyệt đối không bi quan về cuộc sống này một chút nào. Nó có khó khăn nhưng không đến mức bi quan. Bởi vì con người đã được nếm trải các thành tựu của sự yên ổn thì không dại gì phá vỡ nó. Chỉ có một vài người đòi thay đổi một cách gấp gáp thì mới sẵn sàng làm thế. Tôi là người luôn luôn tìm kiếm sự ổn định để âm thầm khắc phục các nhược điểm mà cuộc sống mang lại cho công việc của tôi. Tôi nghĩ sự yên tĩnh để khắc phục sai lầm một cách cẩn thận mới là cái xã hội thực sự cần. Tức là xã hội không cần thay đổi thể chế mà cần điều kiện yên tĩnh để mỗi một người khắc phục các nhược điểm của thể chế theo kiểu của mình.
Tất cả những hiệp định thương mại song phương, đa phương mà anh nói là những cánh đồng mênh mông mà Đảng ta dẫn doanh nhân Việt Nam vào. Họ cần phải học WTO là gì, FTA là gì, v.v… Là một luật sự chuyên nghiệp về lĩnh vực này, tôi biết học những thứ ấy rất khó. Ví dụ, Công ước Berne về sở hữu trí tuệ khó hiểu ngay cả đối với các chuyên gia chứ không chỉ với những người bình thường. Người Việt cần sự yên tĩnh để rút kinh nghiệm và họ sẽ trở thành các nghệ sĩ lang thang ở các chợ quốc tế để bán những món hàng mà thông thường người ta không nghĩ rằng bán được. Ví dụ chúng ta đang bán cá basa. Trước đây xuất nhập khẩu của chúng ta là một sự đảm bảo từ nhà nước, còn bây giờ ai cũng xuất nhập khẩu. Người Việt khôn lắm, con người khôn lắm! Hãy để cho họ khôn một cách bình thường!
Hỏi: Đồng nghiệp của ông đã tỏ ra hoang mang thậm chí cho ông là đánh đố họ khi trên một diễn đàn ông từng dõng dạc đại ý: “Không có một nhà chính trị nào đi học kinh nghiệm của nhà chính trị khác để điều hành đất nước của mình. Không có một nhà kinh doanh chân chính nào đi học kinh nghiệm của nhà kinh doanh khác để điều hành doanh nghiệp của mình. Không có một người chồng chân chính nào đi học kinh nghiệm của hàng xóm để về điều hành vợ mình”. Ông có thể nói rõ hơn chăng?
Trả lời: Đúng câu ấy là của tôi. Qua câu ấy tôi muốn khuyến khích một điều là mỗi con người phải góp kiến thức của mình, kinh nghiệm của mình vào kinh nghiệm chung của nhân loại, không dùng một cách máy móc cái của người khác. Tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải sáng tạo. Tôi đưa ra ba mệnh đề như thế bởi tôi thấy xã hội hiện nay có những đòi hỏi không phù hợp. Có những người đòi hỏi phải thay đổi thể chế này thành một thể chế theo kiểu Mỹ. Tôi muốn nhắc nhở họ rằng các nhà chính trị Việt Nam có các điều kiện của Việt nam, có cách thức của Việt Nam, có quần chúng của Việt Nam, họ không bắt chước kiểu Mỹ.
Nhà kinh doanh cũng thế, mỗi người có một cách điều hành công ty, điều hành kinh doanh của mình. Hoạt động ấy phát sinh từ những đòi hỏi rất cụ thể đối với từng trường hợp và người ta phải tự nhận thức lấy để xử lý. Không phải cứ học trường Harvard ra là thành công trong kinh doanh. Tôi thấy phần lớn học ở trường Harvard ra là để phục vụ các nhà kinh doanh, còn để trở thành nhà kinh doanh thì khó. Nhà kinh doanh phải có ý tưởng của mình, không có ý tưởng thật sự không kinh doanh được. Trong kinh doanh người ta không mấy khi cần đến các giáo sư, tiến sĩ. Tôi lang thang ở Mỹ nhiều lần, đến những hãng luật khôn ngoan và lớn nhất New York, nhưng không thấy người ta tuyển tiến sĩ. Các luật sư là partner của hãng luật ở New York lương tối thiểu là 500.000 USD/ năm. Người ta trả giá đắt cho những giá trị thật chứ không trả giá cho những danh hiệu.
Trong giới kinh doanh có những tâm sự cụ thể như thế đấy. Tôi nói với nhà báo để anh hiểu được nó có các không gian tinh thần riêng biệt của nó. Nghiên cứu nó là nghiên cứu cấu trúc tinh thần của cả cái cộng đồng văn hóa ấy. Đảng ta nên có những công trình nghiên cứu về giới doanh nhân Việt Nam một cách chuyên nghiệp. Bởi nếu không thì không thể soạn luật kinh doanh, luật công ty một cách chuyên nghiệp được. Tôi có viết trong sách rằng nếu pháp luật không có năng lực biến thành văn hóa thì pháp luật không có giá trị trên thực tế, bởi cái có khả năng điều chỉnh hành vi con người hiệu quả nhất chính là văn hóa. Pháp luật có giá trị là pháp luật có thể biến thành văn hóa. Nhân dịp này báo chí nên cảnh báo với xã hội và các nhà điều hành đất nước là cần phải nhìn nhận giới kinh doanh như một đối tượng chuyên nghiệp chứ đừng thương họ. Họ không đáng thương, thậm chí họ có thể trở thành một lực lượng nguy hiểm nếu không uốn nắn cẩn thận, không điều chỉnh bằng luật pháp một cách cẩn thận.
Doanh nhân chỉ có ích khi họ được điều chỉnh một cách khoa học. Người chơi cờ đầu tiên là phải tôn trọng các quy tắc của bàn cờ. Không ai trở thành kỳ thủ nếu không tôn trọng bàn cờ.
Nhà lãnh đạo là người thiết kế bàn cờ cũng phải tôn trọng cái bàn cờ mà doanh nhân là các kỳ thủ, nếu không thì quân hồi vô phèng, không ai bảo được ai. Có những thời điểm tôi có cảm giác hình như xã hội chúng ta đang đến gần trạng thái ấy, cần phải chấn chỉnh ngay. Báo chí cần phải góp một tiếng nói trong chuyện đó.
Hỏi: Tự nhận mình là kẻ ngu ngơ dại dột trong cuộc sống hàng ngày nhưng trong kinh doanh ông không ngại nhận mình là một CEO- Tổng tư lệnh. Ông từng nói doanh nhân là chiến binh thời bình. Là Tổng tư lệnh ông có cách điều binh gì đặc biệt?
Trả lời: Tất cả các CEO đều phải có nghị lực tương đương với một viên tướng để cầm quyền trong kinh doanh. Những người điều hành kinh doanh nếu không có nghị lực của một viên tướng thì không thành công được. Thậm chí không chỉ có nghị lực của một viên tướng mà đôi khi còn phải thô lỗ như một viên tướng. Đấy là phẩm chất thứ nhất.
Phẩm chất thứ hai là biết rình mồi và vồ mồi. Doanh nhân như là con sư tử, con hổ, con báo, họ phải đủ kiên nhẫn để rình các cơ hội như một con thú lớn rình mồi. Không học cách rình mồi thì không thể làm doanh nhân được. Doanh nhân phải học đủ công nghệ của một con sư tử là kiên nhẫn khi rình mồi và kiên quyết khi vồ mồi.
Phẩm chất thứ ba là phải có óc tổ chức. Không có năng lực tổ chức lực lượng, tổ chức kinh doanh thì không làm doanh nhân được. Phẩm chất thứ tư là trí tưởng tượng. Không có trí tưởng tượng thì sẽ phải gánh cái gánh quá nặng. Trí tưởng tượng đôi khi giúp con người bay qua các khó khăn để đến với cơ hội. Còn nhiều phẩm chất khác, nhưng đối với tôi những phẩm chất vừa nói là quan trọng nhất.
Có một cái thứ năm nữa là thiên tài. Tôi đã định nghĩa trong một quyển sách: “Thiên tài là cái mà kẻ sở hữu nó là kẻ cuối cùng biết về nó”. Thiên tài là Chúa cho, cái đấy chúng ta không phân tích được.
Kỳ cuối BỊ TIỀN & TÚI TRÍ TUỆ
Hỏi: Cách điều binh đặc biệt của Nguyễn Trần Bạt đã khiến quân sĩ của ông lần lượt trở thành những người rất có uy tín trên thị trường lao động Việt Nam. Có vị Tổng giám đốc Ngân hàng ANZ từng là trợ lý của ông. Khoảng hơn 70 công ty làm dịch vụ tư vấn hiện nay có người đứng đầu là những người từng có thời gian công tác trong công ty ông. Và không ít các luật sư sau khi thôi làm ở công ty ông, họ được nhận công việc tại những công ty luật danh tiếng thế giới như Baker & McKenzie hay White & Case... Xin ông vui lòng hé lộ những bí quyết riêng của việc dùng người?
Trả lời: Câu hỏi của anh làm tôi nhớ đến phim “Dũng sĩ giác đấu”. Cách điều hành cán bộ của tôi là anh em nào cũng phải đối mặt với công việc, như người dũng dĩ đối mặt với kẻ địch trên đấu trường. Họ có thể sống, có thể chết, có thể thắng, có thể thua, lương có thể 5.000 đôla/tháng và cũng có thể chỉ 300-500 đôla/ tháng, tùy thuộc vào phẩm chất của họ. Tôi không nương nhẹ đối với binh sĩ. Hành vi làm cho con người tủi thân nhất chính là được nâng đỡ. Tôi có một tác phẩm có tên là “Vượt qua các giới hạn”. Hầu hết những việc chúng tôi làm đều phải vượt qua các giới hạn của nó. Cách tôi bày đặt công việc cho anh em là như thế. Nhưng tôi không làm việc cụ thể với anh em mà họ buộc phải sáng tạo và chịu trách nhiệm về các sáng tạo cụ thể của mình. Tôi là người thầy hướng dẫn họ tưởng tượng chứ tôi không phải là thợ cả. Loại công việc này có những loại rủi ro nào và những chuyên gia của nó chết như thế nào là tôi nói để họ biết. Có những người hiện nay đã yên phận ở trong tù từng đến hỏi tôi trước khi nhậm chức là có bao nhiêu rủi ro cho cương vị ấy. Tôi đã nói trước cho họ những cửa tử và cuối cùng thì mọi chuyện xảy ra đúng như vậy, họ chủ quan nên không thoát được.
Hỏi: Ông từng bộc bạch thực phẩm của tài năng là tự do. Thưa ông, tự do tối thiểu cũng như nếu không được tuyệt đối thì cũng là chừng mực của doanh nhận Việt hiện nay là gì? Họ đang để suông để chuội hay cần phải tháo gỡ cải cách gì để có thứ thực phẩm quý giá ấy?
Trả lời: Tự do của doanh nhân Việt Nam chính là những sơ hở mà họ tận dụng được do tính không chuyên nghiệp của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế. Tự do của mọi doanh nhân trên thế giới đều gắn liền với sự sơ sểnh của các nhà nước. Ai không hiểu chính trị, không hiểu được các khe hở mà các chính phủ vô tình tạo ra thì người đó không làm doanh nhân hiện đại được. Cũng chính vì đặc điểm ấy nên có một loại nghề đắt giá đi kèm bảo vệ doanh nhân, đấy chính là các luật sư.
Khi tôi nói tự do là thực phẩm của thiên tài là nói đến khía cạnh sáng tạo chứ không nói đến khía cạnh kinh doanh. Tự do của doanh nhân là tự do nhân tạo bởi kinh doanh là đối tượng nhân tạo. Vì thế tự do của doanh nhân không phải là tự do phổ quát của con người. Tự do của doanh nhân là sự bất lực của hệ thống quản lý nhà nước.
Dự thảo cương lĩnh chuẩn bị cho Đại hội Đảng XII vừa được công bố có nói đến nâng cao năng lực của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tức là xây dựng hệ thống chính sách và pháp luật để vừa khuyến khích, vừa quản lý đời sống kinh doanh. Tôi cho rằng trong việc nghiên cứu để nâng cao năng lực thể chế cần để ý đến cặp phạm trù mà tôi vừa đề cập. Nghiên cứu các kẽ hở của pháp luật và sự sơ hở của nhà nước để tận dụng là đặc trưng của doanh nhân ở mọi nơi trên thế giới. Chúng ta thấy gần đây xuất hiện cả công ước quốc tế về chống rửa tiền. Nếu khái quát lên sẽ thấy việc khắc phục các điểm yếu của năng lực quản lý nhà nước về kinh doanh đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Hỏi: Sự thành đạt của Nguyễn Trần Bạt những là lập thân lập nghiệp và cả lập ngôn nữa… Bằng cớ là ông là tác giả của nhiều cuốn sách khá tày tặn vài trăm trang in trở lên mà đa phần do NXB Hội Nhà Văn in. Không phải tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ… Tuy chẳng phải hồi ký nhưng những chiêm nghiệm bộc bạch của ông về cuộc sống, về lòng người, thói đời lẫn thế sự như là một thông điệp đa dạng rằng sự giàu có về của cải vật chất phải luôn song hành với sự giàu có phong phú về tâm hồn. Phải vậy không thì cuộc sống mới có ý nghĩa?
Trả lời: Viết sách là một lối thoát về mặt phát triển của tôi. 45 tuổi tôi mới bắt đầu kinh doanh, khi có tiền thì tôi bắt đầu già, khó tiếp tục mở rộng kinh doanh ở mức cao hơn nữa. Tôi không có tương lai nếu phát triển theo hướng trở thành một nhà kinh doanh lớn hơn. Mà con người thì luôn luôn phải phát triển nên tôi tìm cách phát triển theo hướng khác, đó là phấn đấu để có một trí tuệ lớn hơn. Tôi đã thay thế việc phát triển túi tiền bằng việc phát triển trí tuệ. Khi tôi viết sách thì vợ tôi thấy khó tưởng tượng tại sao ông chồng của mình bỗng nhiên có một năng lực như vậy. Bởi vì vợ tôi chỉ bắt đầu đi cùng tôi từ lúc tôi 30 tuổi mà cuộc đời của tôi thì bắt đầu từ năm 10 tuổi. 80% học vấn mà tôi có là do tôi học từ lúc ấy. Vốn hiểu biết của tôi có rất sớm do những kiến thức về các nền văn học lớn trên thế giới mà tôi học được. Cái đó trở thành công cụ cơ bản để tôi tạo ra phần thứ hai này của tôi.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt trước khi mất mấy năm có mời tôi đến chơi. Tôi có nói với ông rằng: “Thưa thủ tướng tôi rất cám ơn ông. Đối với tôi, Việt Nam có hai nửa người anh hùng đó là ông và Tổng bí thư Đỗ Mười. Nhờ cảm hứng tôi nhận được từ hai ông mà tôi lập ra công ty của tôi”. Ông Kiệt tỏ ra khá thân mật với tôi trong những năm cuối đời. Tôi cũng có mời bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm đến đây và nói với anh ấy rằng “Trong đời tôi có hai việc lớn là lập ra công ty và viết sách. Tôi muốn cảm ơn hai người, đó là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và anh. Tôi đã gặp Thủ tướng rồi. Hôm nay tôi mời anh đến đây để cảm ơn anh, vì mấy cuốn sách của tôi đã được xuất bản thời kỳ anh làm trưởng ban văn hóa tư tưởng”. Nói như vậy để anh thấy rằng tôi là người suy nghĩ về ân huệ rất chi li. Sở dĩ tôi có thiện cảm với những người cộng sản vì tôi biết rằng sự nghiệp của tôi, sự thành đạt của tôi có được trong sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ những người không biết tận dụng các cơ hội mới than trách rằng chế độ chính trị này ngăn cản họ thành đạt.
Hỏi: Tại sao những cuốn sách của anh chỉ in ở nhà xuất bản Hội nhà văn?
Trả lời: Anh biết là trên thế giới này các nhà triết học hoặc khoa học có hai phong cách. Phong cách Ănglo –xắcxông (tức là phong cách Anh) đi theo hướng logic. Còn phong cách Pháp thì đi theo hướng văn học. Rất nhiều nhà triết học Pháp là nhà văn. Ví dụ, Voltaire, Montesquieu, Loui Aragon, Jean Paul Sartre, v.v… có thể gọi họ là nhà triết học, nhà chính trị học hay nhà văn cũng được. Người Việt chúng ta có một thời kỳ Pháp thuộc cho nên các phương pháp luận chịu ảnh hưởng khá lớn của phong cách Pháp. Tôi cũng không nằm ngoài điều ấy. Tôi thể hiện các nội dung của mình bằng ngôn ngữ văn học. Anh Vũ Tú Nam có nói với tôi “anh viết sách chính trị mà đọc như đọc tiểu thuyết”. Anh Ma Văn Kháng cũng đến đây bảo là “tớ đọc được các thông điệp của cậu chèn trong các kẽ chữ”. Tôi chọn phong cách như vậy để thể hiện các tác phẩm của mình, cho nên mới chọn nhà xuất bản Hội nhà văn.
Nhân đây tôi cũng xin lưu ý báo chí là sự chuyển đổi thế hệ kinh doanh, chuyển đổi các mô đun cơ bản của đời sống văn hóa kinh doanh ở Việt Nam thay đổi rất nhanh, cho nên ngôn ngữ phải chạy cho kịp. Các anh đôi khi không để ý đến khía cạnh lạc hậu của ngôn ngữ. Với tình trạng phát triển Internet như thế này, người ta vứt ngôn ngữ đi nhanh lắm. Đôi khi tôi cũng thấy chóng mặt về sự thay đổi ấy.
Hỏi: Đấy là cái vạn biến hay cái bất biến?
Trả lời: Bản thân từng yếu tố trong chu trình thay đổi là vạn biến, nhưng tất yếu thay đổi là bất biến.
Hỏi: Tôi nghĩ có lẽ may mắn là sống sót được vài người như ông?
Trả lời: Không, tôi nghĩ là có nhiều thứ sống sót chứ. Có điều không phải mọi sự sống sót đều to khỏe cả. Còn có nhiều sự sống sót khác gầy hơn. Vì chúng ta chỉ có thói quen nhìn các con to khỏe nên không nhìn thấy sự tồn tại của các con gầy. Tôi có bài viết bàn về chênh lệch giàu nghèo. Tôi cho rằng chênh lệch giàu nghèo đôi khi còn là sự chênh lệch về năng lực. Không thể đòi hỏi những con có năng lực thấp phát triển thành những con to khỏe được. Mà cuộc sống cũng không cần những sự hoành tráng ngốc nghếch, bất hợp lý.
Chúng ta phải có một cấp phối phát triển phù hợp với năng lực của từng đối tượng. Ví dụ, tôi đủ kinh nghiệm để hiểu được giá trị của những kích thước lớn như Vincom, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia lai, v.v… nhưng tôi không thèm muốn nó. Đó là trạng thái cân bằng tinh thần mà con người cần phải rèn luyện. Trong cuộc sống, nhiều khi người ta không kìm hãm được sự ham muốn, đố kỵ. Nếu không rèn luyện để mất đi sự đố kị, ham muốn vu vơ thì cuộc sống không bao giờ hạnh phúc cả.
Hỏi: Cái cảm giác đó khủng khiếp lắm?
Trả lời: Vô cùng khủng khiếp, nó giày vò, nó hành hạ nếu như người ta không biết cách tự cân bằng. Tôi kể cho anh nghe câu chuyện của cá nhân tôi. Tôi từng là Phó chủ tịch của Habubank và có 30% cổ phần ở đó vào năm 1989. Sau một hồi lòng vòng xem công việc bếp núc của hoạt động ngân hàng như thế nào, tôi đã bán hết số cổ phần và rút khỏi đó. Bởi tôi biết tôi làm tiền để sống chứ không phải để chết. Tôi quý sự yên tĩnh cá nhân của tôi hơn mấy đồng tiền ấy. Mọi người cứ tưởng giàu có là một món quà vô tư. Giàu có là một gánh nặng. Giàu có đôi khi trở thành cái gông treo trên cổ con người, làm nặng trĩu tâm hồn con người.
Rất thú vị! Cảm ơn học giả Nguyễn Trần Bạt và xin được ngồi với ông vào một dịp đây…