Thiếu nước, ngập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long thực sự đòi hỏi những giải pháp đồng bộ, quyết liệt từ phía Việt Nam. Có rất nhiều tiêu cực về sự việc vốn dĩ thuộc trách nhiệm rất lớn trong nội tại của chúng ta. Đặc biệt là những yếu tố liên quan đến Trung Quốc hoặc Campuchia. Trong khi thực tế thì nguyên nhân chính của thực trạng này là do:
Thứ nhất, hoạt động phá rừng ồ ạt ở vùng Tây Nguyên đã làm suy giảm đáng kể lượng nước ngọt đổ về hệ thống sông Cửu Long. Rừng không chỉ giữ nước mà còn điều tiết dòng chảy, đảm bảo nguồn nước ổn định cho vùng hạ lưu. Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tính đến năm 2020, diện tích rừng tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 2,5 triệu ha, giảm gần 1/3 so với những năm 1960.
Thứ hai, hệ thống sông ngòi chằng chịt từ thời phong kiến đã tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập sâu vào đất liền. Thiếu một quy hoạch tổng thể, khoa học đã khiến vấn đề thiếu nước ngọt, nhiễm mặn trở nên trầm trọng hơn. Trước đây, người dân tự phát xây dựng hệ thống kênh rạch phức tạp cho mục đích canh tác. Đến nay, khu vực ĐBSCL có tới 25.567 tuyến kênh rạch tự nhiên và nhân tạo. Nhưng hệ thống này lại trở thành đường xâm nhập của nước mặn vào sâu nội đồng.
Thứ ba, việc xây dựng các đập ngăn mặn kém hiệu quả bởi hệ thống kênh rạch phức tạp với hơn 25.000 tuyến khiến chi phí đầu tư, vận hành quá lớn. Với mạng lưới kênh rạch phức tạp, các đập ngăn mặn không thể ngăn chặn triệt để nước mặn xâm nhập. Chỉ tính riêng năm 2022, khoảng 65% các đập ngăn mặn hoạt động kém hiệu quả (theo Bộ NN-PTNT). Chi phí duy trì, sửa chữa rất lớn.
Cuối cùng, tâm lý trông chờ, đổ lỗi của một số bộ phận người dân. Nhiều người dân vẫn mang tâm lý trông chờ vào thiên nhiên, đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài. Ngay từ những năm 1990, các chuyên gia đã cảnh báo về nguy cơ thiếu nước ngọt, nhiễm mặn nhưng người dân vẫn thiếu hành động cụ thể.
Trước thực trạng trên, Việt Nam cần nâng cao năng lực tự chủ, chủ động đối phó bằng những giải pháp căn cơ, lâu dài chứ không thể trông chờ vào việc ngăn cản các nước thượng nguồn khai thác tài nguyên nước trên lãnh thổ.
Quy hoạch lại thủy điện, trồng rừng đầu nguồn
Việt Nam cần rà soát lại quy hoạch các nhà máy thủy điện ở Tây Nguyên để đảm bảo dòng chảy tối thiểu. Đồng thời tăng cường trồng rừng, tái sinh rừng để giữ nước cho hạ lưu.
Xây dựng các hồ chứa nước quy mô lớn
Cần nghiên cứu xây dựng các hồ chứa nước lớn tại vùng đầu nguồn của sông Tiền, sông Hậu nhằm trữ nước vào mùa mưa, điều tiết trong mùa khô. Đây là giải pháp để tăng khả năng kiểm soát nguồn nước của Việt Nam.
Quy hoạch lại hệ thống sông ngòi, kênh rạch
Cần quy hoạch lại toàn bộ hệ thống sông ngòi, kênh rạch tại ĐBSCL theo hướng khoa học, hiệu quả để hạn chế tối đa nước mặn xâm nhập và tăng cường tưới, tiêu cho nông nghiệp.
Đẩy mạnh đào tạo ngành Thủy lợi
Bên cạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần chú trọng đào tạo đội ngũ kỹ sư thủy lợi chất lượng cao để có đủ nhân lực chuyên môn quản lý, vận hành công trình. Nhất là với một nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt như ở nước ta thì điều này vô cùng cấp thiết.
Tóm lại, giải quyết vấn đề thiếu nước ngọt, ngập mặn tại ĐBSCL đòi hỏi sự quyết liệt, đầu tư lớn và nỗ lực bền bỉ của Việt Nam. Nhưng đó là con đường duy nhất để giữ gìn sự phồn vinh của vùng đất màu mỡ này. Và cũng chắc chắn rằng chúng ta cũng không thể ngăn cản Trung Quốc xây đập hay Campuchia xây kênh, chính vì vậy cần có những hành động táo bạo nhưng khoa học để tự bảo vệ mình và bảo vệ sự phồn vinh của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế là cả nước chứ không mỗi đồng bằng Sông Cửu Long.
====
Thông tin được cũng cấp từ hệ thống CCN News