Trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự: Tác động tới an ninh quốc tế và hàm ý cho Việt Nam

22 Trần Quốc Toản, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp.HCM
Tiêu điểm
Tin tức: Úc cam kết hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực được coi là “xương sống” của ngành kinh tế, đóng góp 12% GDP Tin tức: THỦY ĐIỆN Vn Tin tức: Cơn bão năm Giáp Thìn ở Nam kỳ Tin tức: Việt Nam cần thích ứng với hoàn cảnh mới CN & MT: 2080-2085 Tin tức: 98% nhà băng Trung Quốc từ chối giao dịch bằng nội tệ với Nga: Moscow hết cách né đòn cấm vận từ Mỹ? BĐS: Sau hơn 1 tháng triển khai luật mới: Vẫn nhiều vướng mắc về đất đai CN & MT: Vài suy nghĩ về cái gọi là 'trí tuệ nhân tạo' Tin tức: Chuyên gia tài chính Trung Quốc bàn về VinFast, Vingroup và kinh tế Việt Nam CN & MT: Why turning cities into ‘sponges’ could help fight flooding BĐS: Shophouse ế ẩm, đóng cửa hàng loạt VH & TG: Lý Quang Diệu viết về những ngày cuối đời BĐS: Nhà phố ở TP.HCM giảm giá, có căn giảm gần 40 tỷ vẫn không có người mua Tin tức: Hút FDI tại Long An 'thắng lớn' nhờ Pepsi, Coca-Cola, Aeon... đua nhau khởi công nhà máy CN & MT: Thái Lan chuẩn bị kịch bản xấu nhất cho nguy cơ "trận lũ lụt thế kỷ" sắp xảy ra CN & MT: Biến đổi khí hậu khiến bão dữ dội hơn CN & MT: A timeline of global warming, 10,000 BC-2100 AD Tin tức: Chính quyền Trung Quốc đang che giấu thực trạng nền kinh tế VH & TG: Bài của Tướng Trì Hạo Điền về mộng bá chủ thế giới của người Hán Tạp chí Các vấn đề chiến lược, Ấn Độ, 15/4/2009 BĐS: Việt Nam nên rút bài học từ ông Lý Quang Diệu khi giá bất động sản tăng nóng? CN & MT: Nexus: A Brief History of Information Networks from the Stone Age to AI by Yuval Noah Harari review – rage against the machine VH & TG: Reagan đã không thắng trong Chiến tranh Lạnh như nhiều người nghĩ Tin tức: Phác thảo bức tranh kinh tế năm 2025 Tin tức: McDonald’s đóng cửa hàng đắc địa nhất TPHCM sau 10 năm hoạt động Tin tức: Từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học Tin tức: Vịt muối Nam Kinh và cuộc chiến gián điệp CN & MT: Đêm mưa bão nghe những thành phố thở than Tiền Tệ : KINH TẾ HOA KỲ NHẬT BẢN VÀ ANH TUẦN NÀY ( 16- 25/9/2024) SẼ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẾ GIỚI CN & MT: Từ sự kiện Tổng biên tập báo TIME Greta Thunberg là Nhân vật của năm 2019 đến báo cáo Biến đổi khí hậu Phúc trình của IPCC báo động đỏ cho nhân loại 82021 BĐS: Tiêu điều mặt bằng cho thuê tại TP. HCM CN & MT: Untangling Religion From Our AI Debates Tin tức: Các tiệm tạp hóa Việt Nam sẽ đổi thay theo chất Thái? BĐS: 9 người mua chung cư, chủ yếu đợi giá tăng để bán BĐS: Giá thuê mặt bằng trung tâm quá cao, người kinh doanh rút về vùng ven TP.HCM Tin tức: Kinh doanh F&B ‘co mình’ khi chi phí mặt bằng leo thang VH & TG: Thân phận phụ nữ ở Ấn Độ: Những gánh nặng kinh hoàng Tin tức: Thanh niên Trung Quốc và tình trạng thất nghiệp báo động BĐS: Thử suy nghĩ BÀI HỌC TỪ TRUNG QUỐC CHO THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM....2024 CN & MT: Từ "Mùa hè đen" ở Canada đến siêu bão Yagi: Chúng ta mới chỉ đang "dùng thử" một Trái Đất +1.5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp Chứng khoán: La Nina hoạt động mạnh từ tháng 8, mưa nhiều chưa từng có, cổ phiếu ngành điện ra sao? CN & MT: Lúng túng với điện mặt trời, điện gió, 10 năm nữa vẫn khó dựa vào điện tái tạo BĐS: SO SÁNH TỒN KHO BẤT ĐỘNG SẢN 2015-2022. 10 ông lớn địa ốc tồn kho hơn 40 nghìn tỷ 62015 30.6.2015 CN & MT: Bão Bebinca mạnh nhất trong hơn 70 năm đổ bộ Thượng Hải Tin tức: “Trung Quốc mộng” thành “Trung Quốc nghèo”: 10 hiện tượng đáng lo ngại Thư Giản: 5 câu chuyện Đại chiến lược của Thế giới 2020-2035. Tin tức: 30.000 quán đóng cửa trong nửa đầu năm 2024 – Cuộc “thanh lọc” của thị trường F&B Tin tức: Kinh tế Trung Quốc đau yếu, Việt Nam ‘sốt’ nặng CN & MT: HIỆN TƯỢNG LA-NINA ĐÃ QUAY TRỞ LẠI Tin tức: Cùng vẽ bản đồ kinh tế – xã hội lưu vực sông Mêkông trong tương lai BĐS: Những vùng tối của khủng hoảng nhà ở Tin tức: Trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự: Tác động tới an ninh quốc tế và hàm ý cho Việt Nam Tin tức: Đại chiến lược của Việt Nam: Nhìn lại sau 5 năm VH & TG: Chuyến thăm lịch sử của Đặng Tiểu Bình và nước đi giúp Trung Quốc “lột xác”, vượt qua láng giềng đáng gờm BĐS: Nam Long (NLG) bàn giao loạt dự án, dự kiến tăng trưởng mạnh cuối năm BĐS: Dân Long An mang bao tải đựng tiền đền bù từ dự án "khủng" SK & Đời Sống: Sự thật về người đàn ông sống lâu nhất Trung Quốc, thọ xuyên 3 thế kỷ nhờ 1 thần chú ai cũng dễ dàng làm được BĐS: Loạt doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu trở lại BĐS: TS. Cấn Văn Lực: “Ai làm bất động sản ở phân khúc nhà phố thương mại thì cần phải quan sát để cơ cấu lại” BĐS: 1 tỷ USD vốn FDI vào nhà đất: Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia... dẫn đầu làn sóng M&A : Nếu không sửa luật, dự án bất động sản sẽ tắc trong 10 năm tới VH & TG: Hoàng đế diệt Phật bị quả báo bi thảm: Bài học lịch sử cho nhân loại ngày nay Tiền Tệ : NHNN điều chỉnh room tín dụng: Nhà băng nào hưởng lợi? Thư Giản: Thời kỳ thoái đã bắt đầu từ lâu - Dự báo 60 năm phần 2 Thư Giản: Dự báo 60 năm đầu thế kỷ 21 và hướng đến thế kỷ 22 Chứng khoán: Thời hoàng kim của chứng khoán Việt Nam 2007 Chứng khoán: “Đỉnh và đáy” cũng như “đêm với ngày”: Nhà đầu tư lão làng Charlie Munger tiết lộ triết lý đầu tư chưa khi nào lỗi thời để gặt hái thành công VH & TG: Đại tác giả KIM DUNG NÓI GÌ VỀ KINH PHẬT CHỮ HÁN ? Thư Giản: Hạn hán lớn nhất thời cổ đại, hoàng đế xin mưa và phép màu khiến muôn dân kinh ngạc VH & TG: Nhân loại trước ngã ba đường? Tiền Tệ : Cơ hội từ khủng hoảng 2008 Tiền Tệ : Tại sao Mỹ sẽ thắng trong cuộc Chiến tranh tiền tệ? Tiền Tệ : Giải bài toán nợ xấu ngân hàng tăng SK & Đời Sống: 'Chẳng ai muốn chuyển ra Bình Chánh khi công việc còn trong quận 1' Chứng khoán: Thị trường chứng khoán Mỹ chìm trong sắc đỏ trong ngày Thứ hai đầu tuần SK & Đời Sống: Giới nhà giàu Việt chọn môi trường sống “giàu có trong thầm lặng” Chứng khoán: Chứng khoán bay mất 50 điểm, rúng động thị trường 200 tỷ USD SK & Đời Sống: Người già nông thôn – đường dài lệ thuộc con cháu Thư Giản: MỘT VÀI SỰ THẬT VỀ NHỮNG THỜI KỲ KHÓ KHĂN! SK & Đời Sống: Thành phố lớn nhất Việt Nam có hơn 1 triệu người cao tuổi, già hoá dân số nhanh, tuổi thọ trung bình 76,5 tuổi SK & Đời Sống: Đưa cây vào nhà, chăm chúng như con SK & Đời Sống: Phục hưng hành lang thiên nhiên - kinh tế - nhân văn dọc sông Sài Gòn SK & Đời Sống: Nghiên cứu khoa học: Sống gần gũi với thiên nhiên giúp chống lại bệnh tật, tốt cho tâm lý, kéo dài tuổi thọ! Thư Giản: NGHỊCH LÝ KHÔNG THỂ "NGƯỢC ĐỜI" HƠN CỦA NGƯỜI HIỆN ĐẠI Tin tức: CÁI GIÁ CỦA CHIẾN TRANH 2024 BĐS: Thời điểm vàng cho bất động sản hậu khủng hoảng CN & MT: Dự báo của Yuval Noal Harari về những biến đổi chính trị - xã hội trong thời đại số và những giải pháp cho xã hội tương lai CN & MT: Neuromorphic supercomputer aims for human brain scale BĐS: Doanh nghiệp trả mặt bằng hàng loạt BĐS: Mặt bằng 'bình dân' ở TP.HCM: Giảm giá phân nửa, giảm tiền cọc vẫn bỏ trống BĐS: Sóng 'tháo chạy' khỏi mặt bằng tiền tỷ khu vực trung tâm giờ ra sao? CN & MT: Trí tuệ nhân tạo đang thay đổi ngành bán lẻ Tin tức: Hệ lụy gì từ cuộc chiến mới ở Trung Đông? BĐS: Dấu ấn bất động sản quý 3: Những "đốm sáng" trong khó khăn Tin tức: Thế giới bắt đầu thời kỳ cấu trúc lại trật tư thế giới The World Begins to Reorder Itself Tin tức: IMF: Triển vọng kinh tế thế giới mấy năm tới chỉ ở “hạng xoàng” BĐS: Chuyên gia nêu rõ khó khăn lớn nhất của thị trường bất động sản hiện nay Tin tức: Nền kinh tế toàn cầu ra sao khi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng mới trong cuộc chiến Israel-Gaza? Tin tức: Xung đột Israel - Hamas: Người ra mặt và kẻ giấu mặt CN & MT: Nếu Trái đất nóng hơn 2,5 độ so với thời tiền công nghiệp, ĐBSCL sẽ gặp nguy cơ Tin tức: Tỉ phú israel có con gái bị Hamas giết! : Vòm sắt - hệ thống đánh chặn tên lửa thành công hơn 90% của Israel? Tin tức: Thế giới đối mặt cùng lúc 5 căn nguyên của thảm họa và nguy cơ Thế chiến III CN & MT: Toyota chứng minh cho cả thế giới thấy 'không vội làm xe điện' là đúng: 1 startup làm 9 năm vẫn lỗ, càng bán càng không có lãi
Bài viết
Trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự: Tác động tới an ninh quốc tế và hàm ý cho Việt Nam

    Tác giả: Ngô Di Lân

    Vào tháng 4 năm 2017, Lầu Năm Góc công bố Dự án Maven (Project Maven), một nỗ lực nhằm tận dụng sức mạnh của AI để phân tích lượng lớn dữ liệu do máy bay không người lái thu thập.[1] Sự ra đời của dự án này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc ứng dụng AI vào lĩnh vực quân sự, đồng thời cũng trở thành tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận gay gắt xoay quanh tác động của công nghệ đối với tương lai của xung đột vũ trang.[2] Tuy nhiên, Dự án Maven chỉ là một trong nhiều ví dụ minh họa cho xu hướng ngày càng gia tăng của việc tích hợp AI vào các ứng dụng quốc phòng trên toàn cầu. Từ Mỹ đến Trung Quốc, từ Nga đến Israel, các cường quốc quân sự đang đầu tư mạnh mẽ vào việc phát triển và triển khai các hệ thống AI trong lĩnh vực quốc phòng. Cuộc chạy đua này không chỉ giới hạn ở các siêu cường, mà còn lan rộng đến cả các nước tầm trung, thậm chí cả các nước nhỏ, tạo ra một cục diện quân sự toàn cầu phức tạp, khó đoán định.

    Câu hỏi đặt ra là: AI sẽ định hình tương lai của chiến tranh và tác động đến môi trường an ninh toàn cầu như thế nào? AI sẽ tác động ra sao tới răn đe hạt nhân và ổn định chiến lược trên toàn cầu? Liệu công nghệ này có khiến cho xung đột vũ trang trở nên dễ xảy ra hơn hay không? Đây là những câu hỏi lớn, có tầm vóc chiến lược mà các nhà nghiên cứu nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung cần có lời giải đáp thỏa đáng.

    1. Vai trò của AI trong một số xung đột lớn gần đây

    Các cuộc xung đột gần đây ở Ukraine và giữa Israel và Hamas đóng vai trò như những “phòng thí nghiệm” thực tế, cung cấp dữ liệu quan trọng về khả năng, hạn chế và tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) trong các ứng dụng quân sự.[3] Trong cuộc xung đột ở Ukraine, việc triển khai AI chủ yếu mang tính phòng thủ và bất đối xứng, nhằm đối phó với lực lượng quân sự truyền thống vượt trội của Nga. Lực lượng Ukraine đã sử dụng hiệu quả các máy bay không người lái được tăng cường bởi AI để trinh sát và tấn công chính xác, cho thấy cách các công nghệ có nguồn gốc thương mại với chi phí tương đối thấp có thể thách thức các mô hình quân sự truyền thống. Sự tham gia của các công ty công nghệ như Palantir, cung cấp phần mềm phân tích dữ liệu và AI tiên tiến, đã cho phép Ukraine xử lý và phân tích nhanh chóng một lượng lớn dữ liệu tình báo.[4] Khả năng này đã được chứng minh là quan trọng trong việc dự đoán các động thái của Nga và lập kế hoạch đối phó hiệu quả.

    Hơn nữa, việc Ukraine sử dụng AI trong phòng thủ mạng và chống lại các chiến dịch thông tin sai lệch làm nổi bật bản chất mở rộng của chiến tranh hiện đại, vốn có xu hướng ngày càng vượt ra khỏi các giới hạn vật lý. Cuộc xung đột này cho thấy cách AI có thể được khai thác để tăng cường khả năng chống chịu trước các cuộc tấn công mạng và nhanh chóng xác định, tìm phương án đối phó với các nội dung tuyên truyền và thông tin sai lệch, những yếu tố ngày càng được xem là những thành tố quan trọng của chiến tranh hiện đại.

    Ngược lại, việc Israel ứng dụng AI trong xung đột ở Dải Gaza thể hiện một cách sử dụng công nghệ này mang tính sát thương diện rộng và gây tranh cãi hơn nhiều. Các hệ thống như “The Gospel” và “Lavender” là ví dụ điển hình của việc lên danh sách mục tiêu và lập kế hoạch tấn công dựa trên AI.[5] Những hệ thống này xử lý một lượng dữ liệu khổng lồ để xác định các mục tiêu tiềm năng, với mục đích được cho là để tăng độ chính xác và giảm thiểu thương vong cho dân thường (nhưng trên thực tế lại có độ sai số rất lớn).

    Có thể thấy rằng vai trò của AI đối với sức mạnh quân sự đang ngày càng gia tăng nhanh chóng, thậm chí có thể làm thay đổi cơ bản cách thức vận hành của chiến tranh hiện đại. Sự tích hợp sâu rộng của AI trên chiến trường cũng khẳng định tầm quan trọng then chốt của dữ liệu như một nguồn lực trong chiến tranh hiện đại đã được làm nổi bật, rõ nét hơn nhờ các xung đột lớn gần đây này. Vai trò ngày một lớn hơn của dữ liệu đang làm thay đổi các hoạt động quân sự, với các hệ thống AI đóng vai trò là “xương sống” cho việc xử lý và phân tích thông tin tình báo từ nhiều nguồn đa dạng bao gồm hình ảnh vệ tinh, mạng xã hội và các cảm biến trên mặt đất. Cuối cùng, những thách thức về đạo đức và pháp lý do việc tích hợp AI vào chiến tranh là rất lớn và nhiều khả năng sẽ ngày càng lớn hơn, đòi hỏi sự quan tâm, chú ý từ cộng đồng quốc tế. Việc sử dụng AI trong lựa chọn và tham gia mục tiêu, như đã thấy trong xung đột Israel-Hamas đang đặt ra những câu hỏi lớn về trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và việc tuân thủ luật nhân đạo quốc tế trong xung đột vũ trang.

    2. Tác động của AI đối với an ninh quốc tế

    2.1. AI và nguy cơ leo thang xung đột

    Xét từ khía cạnh lý thuyết quan hệ quốc tế, xung đột vũ trang thường nổ ra do hai nguyên nhân chính: sự quá lạc quan từ ít nhất một bên và sự leo thang khủng hoảng ngoài tầm kiểm soát. Sự xuất hiện của AI trong lĩnh vực quân sự và chiến lược đang tạo ra những tác động sâu sắc đối với cả hai yếu tố này, đồng thời làm thay đổi bản chất của xung đột.

    Sự lạc quan thái quá là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến xung đột vũ trang, xảy ra khi một bên đánh giá quá cao khả năng chiến thắng của mình hoặc đánh giá thấp đối phương. Điển hình là quyết định của Đức phát động Thế chiến I năm 1914, khi họ tin rằng có thể đánh bại Pháp nhanh chóng thông qua Kế hoạch Schlieffen trước khi Nga kịp huy động quân đội.[6] Tuy nhiên, họ đã đánh giá sai khả năng kháng cự của Bỉ và tốc độ huy động của Nga, dẫn đến một cuộc chiến kéo dài và tốn kém. AI có thể giúp giảm nguy cơ này bằng cách cải thiện đáng kể khả năng thu thập và phân tích thông tin. Các mô hình AI tiên tiến có thể xử lý lượng dữ liệu khổng lồ từ nhiều nguồn, phát hiện các mô hình và xu hướng mà con người có thể bỏ qua, giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về tình hình.

    Mặt khác, AI cũng có thể tăng cường sự tự tin thái quá theo nhiều cách. Sự phức tạp và độ chính xác được cho là cao của các mô hình AI có thể tạo ra cảm giác sai lầm về sự chắc chắn, khiến các nhà lãnh đạo đặt niềm tin quá mức vào các dự đoán mà không nhận thức đầy đủ về hạn chế và thiên kiến tiềm ẩn. AI cũng có thể tạo ra “ảo tưởng” về lợi thế quân sự thông qua các hệ thống vũ khí tiên tiến như máy bay không người lái tự hành hoặc hệ thống phòng thủ tên lửa, khiến một quốc gia tin rằng họ có khả năng vượt trội.[7] Ngoài ra, khả năng của AI trong việc tạo ra các kịch bản và mô phỏng phức tạp có thể vô tình khuyến khích tư duy “đánh nhanh thắng nhanh”. Các mô phỏng AI có thể cho thấy kết quả tích cực trong các kịch bản xung đột, nhưng chúng có thể không tính đến đầy đủ các yếu tố không thể dự đoán và phi lý tính vốn có trong chiến tranh thực tế.

    Nguyên nhân thứ hai dễ dẫn tới bùng phát xung đột vũ trang là do khủng hoảng mất kiểm soát. Leo thang khủng hoảng là một quá trình trong đó căng thẳng giữa các bên tăng dần, cuối cùng dẫn đến xung đột vũ trang mặc dù ban đầu không bên nào mong muốn điều đó.[8] Quá trình này thường bao gồm một loạt các hành động và phản ứng, mỗi bước đi làm tăng cả mức độ đe dọa lẫn mức độ cam kết của các bên.

    Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 là một ví dụ nổi tiếng về cách một tình huống có thể nhanh chóng leo thang đến bờ vực chiến tranh hạt nhân. Quyết định của Liên Xô đặt tên lửa ở Cuba và sau đó là phản ứng gay gắt, quyết liệt của chính quyền Kennedy đã tạo ra một tình huống cực kỳ nguy hiểm, chỉ được giải quyết vào phút cuối nhờ ngoại giao khéo léo.[9] Khủng hoảng thường leo thang ngoài tầm kiểm soát do nhiều yếu tố, bao gồm áp lực thời gian, thông tin không đầy đủ, hiểu lầm về ý định của đối phương, và lo sợ về hậu quả của việc tỏ ra yếu đuối. Trong môi trường căng thẳng và bất ổn của khủng hoảng, các nhà lãnh đạo có thể đưa ra những quyết định dẫn đến hậu quả không lường trước được.

    Nhìn chung, AI có thể tác động đáng kể đến động lực leo thang khủng hoảng, theo hướng tiêu cực nhiều hơn tích cực. Mặc dù có thể cải thiện khả năng phát hiện sớm các dấu hiệu khủng hoảng, AI cũng có thể rút ngắn đáng kể thời gian ra quyết định trong các tình huống khủng hoảng, với các hệ thống cảnh báo sớm dựa trên AI có khả năng phát hiện các mối đe dọa trong thời gian thực, có thể chỉ trong vài phút. Điều này tạo áp lực lên các nhà lãnh đạo phải đưa ra quyết định nhanh chóng, làm tăng nguy cơ phản ứng quá mức hoặc ra quyết định sai lầm dựa trên thông tin không đầy đủ.

    Hơn nữa, sự phụ thuộc vào các hệ thống AI trong quản lý khủng hoảng có thể dẫn đến những hiểu lầm nguy hiểm và giảm khả năng kiểm soát của con người. AI có thể diễn giải sai ý định hoặc hành động của đối phương, đặc biệt là trong các tình huống phức tạp hoặc không rõ ràng. Ngoài ra, việc tự động hóa một số khâu ra quyết định trong quản lý khủng hoảng có thể dẫn đến leo thang ngoài ý muốn. Nếu các hệ thống AI được giao quyền tự động phản ứng đối với các mối đe dọa được nhận thức, có thể xảy ra tình huống “máy giao tiếp với máy”, trong đó các hành động tự động của một bên kích hoạt phản ứng tự động từ bên kia, tạo ra một vòng xoáy leo thang nhanh chóng vượt quá tầm kiểm soát của con người.

    2.2. AI và răn đe hạt nhân

    Răn đe hạt nhân được đông đảo giới nghiên cứu chiến lược xem là đã và đang đóng vai trò chủ chốt trong việc ngăn ngừa một cuộc chiến tranh “nóng” giữa các cường quốc kể từ sau Thế chiến II đến nay. Lý thuyết răn đe hạt nhân, được phát triển bởi các nhà chiến lược như Bernard Brodie và Thomas Schelling, dựa trên nguyên tắc “hủy diệt lẫn nhau chắc chắn” (MAD).[10] Theo đó, khi các bên đều sở hữu khả năng trả đũa hạt nhân đáng tin cậy, không bên nào dám mạo hiểm phát động một cuộc tấn công trước, vì lo ngại hậu quả hủy diệt không thể chấp nhận được. Hiệu quả của răn đe hạt nhân được minh chứng qua việc không có xung đột trực tiếp nào nổ ra giữa các cường quốc hạt nhân trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh và sau đó. Ngay cả trong những thời điểm căng thẳng cao độ như Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, logic của răn đe hạt nhân đã giúp các bên kiềm chế và tìm kiếm giải pháp ngoại giao thay vì leo thang quân sự.[11]

    Tuy nhiên, sự xuất hiện của AI đang tạo ra những thay đổi đáng kể trong động lực của răn đe hạt nhân, có khả năng làm suy yếu, xói mòn tác dụng của vũ khí hạt nhân trong việc ngăn chặn xung đột. Cụ thể, AI có tiềm năng tác động đến ba yếu tố cốt lõi của răn đe hạt nhân: khả năng phát hiện, khả năng sống sót của lực lượng hạt nhân, và quá trình ra quyết định.

    Thứ nhất, về khả năng phát hiện, AI có thể nâng cao đáng kể hiệu quả của các hệ thống cảnh báo sớm.[12] Các thuật toán học máy tiên tiến có khả năng phân tích lượng dữ liệu khổng lồ từ nhiều nguồn để phát hiện dấu hiệu của cuộc tấn công hạt nhân sắp xảy ra với độ chính xác và tốc độ vượt trội. Thứ hai, AI có thể tác động mạnh mẽ đến khả năng sống sót của lực lượng hạt nhân – yếu tố then chốt của khả năng trả đũa hạt nhân (second-strike capability).[13] Các hệ thống AI tiên tiến có thể nâng cao đáng kể khả năng phát hiện và theo dõi các phương tiện phóng tên lửa hạt nhân, bao gồm cả tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo. Cuối cùng, AI đang thay đổi cách thức vận hành của hệ thống chỉ huy và kiểm soát hạt nhân.[14] Các hệ thống hỗ trợ ra quyết định dựa trên AI có thể giúp các nhà lãnh đạo xử lý thông tin nhanh hơn trong các tình huống khủng hoảng. Các hệ thống cảnh báo sớm dựa trên AI có khả năng phát hiện dấu hiệu của cuộc tấn công hạt nhân trong thời gian thực, có thể chỉ trong vài phút.

    Quan trọng hơn, AI có thể làm thay đổi nhận thức về tính khả thi của một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu thành công. Nếu một quốc gia tin rằng, nhờ có AI, họ có thể phát hiện và vô hiệu hóa toàn bộ kho vũ khí hạt nhân của đối phương trong một đòn tấn công bất ngờ, điều này có thể làm suy yếu nghiêm trọng logic của răn đe hạt nhân. Kết quả là, trong một cuộc khủng hoảng, một bên có thể cảm thấy áp lực phải “sử dụng hoặc mất” vũ khí hạt nhân của mình, làm tăng nguy cơ xung đột leo thang.[15]

    Về tổng thể, AI rất có thể đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với hiệu quả của răn đe hạt nhân. Bằng cách làm giảm thời gian ra quyết định, tạo ra sự không chắc chắn về khả năng sống sót của lực lượng hạt nhân, và có khả năng thay đổi nhận thức về tính khả thi của một cuộc tấn công phủ đầu, AI đang làm suy yếu các nền tảng của sự ổn định chiến lược dựa trên răn đe hạt nhân. Từ góc nhìn này, sự phát triển và tích hợp sâu rộng của AI vào trong bộ máy quân sự trong tương lai sẽ gây gia tăng nguy cơ xung đột vũ trang giữa các nước lớn nói riêng và giữa các nước sở hữu vũ khí hạt nhân nói chung.

    2.3. AI và chi phí của xung đột vũ trang

    Sự tích hợp của AI vào các hệ thống quân sự đang làm thay đổi căn bản cách thức tiến hành chiến tranh. Các hệ thống vũ khí tự hành, từ máy bay không người lái đến robot chiến đấu trên mặt đất, sẽ từng bước giảm thiểu sự hiện diện của con người trên chiến trường. Điều này có thể làm giảm đáng kể thương vong cho lực lượng sử dụng chúng, ít nhất là trong một số giai đoạn nhất định của xung đột. Hơn nữa, các cuộc tấn công mạng được hỗ trợ bởi AI có thể gây ra thiệt hại đáng kể cho cơ sở hạ tầng quan trọng của đối phương mà không cần đến sự hiện diện vật lý trên lãnh thổ của họ. Điều này khiến ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình, giữa mục tiêu quân sự và dân sự, mờ đi đáng kể.

    Việc chi phí chính trị của xung đột giảm đi có thể dẫn đến việc gia tăng số lượng các cuộc xung đột cường độ thấp, ở quy mô hạn chế.[16] Các nhà cầm quân có thể cảm thấy sẵn sàng sử dụng vũ lực hoặc tiến hành các hoạt động gây hấn hơn khi họ tin rằng mình có thể kiểm soát được mức độ leo thang và hạn chế thiệt hại. Điều này đặt ra thách thức đáng kể đối với các cơ chế ngăn chặn xung đột truyền thống. Sự phức tạp và tốc độ của các cuộc xung đột được hỗ trợ bởi AI có thể làm suy yếu hiệu quả của các cơ chế giải quyết xung đột truyền thống như đàm phán ngoại giao hoặc can thiệp của bên thứ ba. Khi các quyết định được đưa ra với tốc độ ngày càng nhanh và dựa trên các phân tích phức tạp của AI, có thể sẽ ít có thời gian và không gian cho các nỗ lực ngoại giao truyền thống. Về tổng thể, việc AI giúp giảm các chi phí liên quan đến sử dụng vũ lực nhiều khả năng sẽ khiến công cụ này trở nên “hấp dẫn” hơn trong mắt của các nhà lãnh đạo ở một số quốc gia, do đó làm tăng nguy cơ có xung đột vũ trang xảy ra trong tương lai.

    3. Hàm ý đối với Việt Nam

    Đối với Việt Nam, AI trong lĩnh vực quân sự mở ra cả cơ hội lẫn thách thức. Trước hết, nếu tận dụng tốt, AI có thể trở thành công cụ đắc lực bảo vệ an ninh quốc gia, nhất là trong tình hình Biển Đông căng thẳng. Các hệ thống giám sát và phân tích dựa trên AI sẽ giúp ta nâng cao khả năng phát hiện và ứng phó kịp thời với các hành vi xâm phạm chủ quyền trên biển. Việc ứng dụng AI vào phòng thủ ven biển và hải đảo cũng sẽ tăng cường đáng kể năng lực bảo vệ lãnh thổ mà không tốn quá nhiều nguồn lực.

    Tuy nhiên, việc các nước tham gia vào một cuộc chạy đua AI trong lĩnh vực quân sự nhiều khả năng sẽ làm xấu đi tình hình an ninh khu vực và thế giới trong thời gian tới. Sự phát triển mạnh mẽ của các hệ thống vũ khí thông minh, giúp giảm thiểu sự hiện diện của binh lính trên chiến trường, có thể khiến việc sử dụng vũ lực trở nên dễ dàng hơn, dẫn đến nhiều cuộc đụng độ nhỏ lẻ nhưng thường xuyên hơn. Điều này buộc Việt Nam phải liên tục cập nhật chiến lược quốc phòng để thích ứng với môi trường an ninh mới.

    Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần chủ động hơn nữa ở các diễn đàn quản trị AI, từ khu vực ASEAN đến toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam có tiềm năng dẫn dắt một phong trào vận động chống lại xu hướng tích hợp AI vào các hệ thống vũ khí có rủi ro cao, có khả năng gây sát thương trên diện rộng. Lập trường này vừa bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, vừa thể hiện một cách thực chất cam kết của Việt Nam đối với hòa bình khu vực.

    Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam có thể đề xuất xây dựng bộ quy tắc có tính ràng buộc về phát triển và sử dụng AI quân sự. Bộ quy tắc này cần nhấn mạnh các nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự kiểm soát của con người. Ở tầm quốc tế, ta cần tích cực tham gia các cuộc thảo luận tại Liên Hợp Quốc và các diễn đàn khác, bảo đảm tiếng nói của các nước đang phát triển được lắng nghe trong quá trình xây dựng luật chơi toàn cầu về AI quân sự.

    Cuối cùng, song song với nỗ lực ngoại giao, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực AI chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh mạng và phân tích dữ liệu lớn. Điều này không chỉ giúp tăng cường năng lực phòng thủ mà còn đảm bảo ta có đủ chuyên gia để đóng góp hiệu quả vào các cuộc thảo luận quốc tế về AI quân sự. Việc đào tạo đội ngũ chuyên gia AI am hiểu sâu sắc về an ninh quốc tế và chiến lược quốc phòng là nhiệm vụ cấp bách để Việt Nam có thể ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh trong thời đại số./.

    —————-

    [1] Saleha Mohsin, “Inside Project Maven, the US Military’s AI Project,” Bloomberg, ngày 1/3/2024, https://bloomberg.com/news/newsletters/2024-02-29/inside-project-maven-the-us-military-s-ai-project.

    [2] James Johnson, “Artificial intelligence & future warfare: implications for international security,” Defense & Security Analysis 35, số 2 (2019): 147-169.

    [3] David Wallace-Wells, “What War by A.I. Actually Looks Like,” The New York Times, ngày 10/4/2024, https://nytimes.com/2024/04/10/opinion/war-ai-israel-gaza-ukraine.html.

    [4] Vera Bergengruen, “How Tech Giants Turned Ukraine Into an AI War Lab,” TIME, ngày 8/2/2024, https://time.com/6691662/ai-ukraine-war-palantir/.

    [5] Sigal Samuel, “Some say AI will make war more humane. Israel’s war in Gaza shows the opposite,” Vox, ngày 8/5/2024, https://www.vox.com/future-perfect/24151437/ai-israel-gaza-war-hamas-artificial-intelligence.

    [6] Terence M. Holmes, “Back to the sources: An attempt to resolve the Schlieffen Plan controversy,” War in History 28, số 3 (2021): 525-543.

    [7] Dominic Johnson, Overconfidence and war: The havoc and glory of positive illusions (Cambridge: Harvard University Press, 2004).

    [8] Barry R. Posen, Inadvertent escalation: Conventional war and nuclear risks (Ithaca: Cornell University Press, 2014).

    [9] Sergey Radchenko và Vladislav Zubok, “Blundering on the Brink: The Secret History and Unlearned Lessons of the Cuban Missile Crisis,” Foreign Affairs, ngày 3/4/2023, https://www.foreignaffairs.com/cuba/missile-crisis-secret-history-soviet-union-russia-ukraine-lessons.

    [10] Henry D. Sokolski, Getting MAD: nuclear mutual assured destruction, its origins and practice (Carlisle: Strategic Studies Institute, US Army War College, 2004).

    [11] Dean C. Curry, “Beyond MAD: Affirming the Morality and Necessity of Nuclear Deterrence,” Transformation 5, số 1 (1988): 8-15.

    [12] James Johnson, “Artificial intelligence in nuclear warfare: a perfect storm of instability?,” The Washington Quarterly 43, số 2 (2020): 197-211.

    [13] Michael C. Horowitz, Paul Scharre, và Alexander Velez-Green, “A stable nuclear future? The impact of autonomous systems and artificial intelligence,” arXiv preprint arXiv:1912.05291 (2019).

    [14] Alice Saltini, “AI and Nuclear Command, Control and Communications: P5 Perspectives,” The European Leadership Network (2023).

    [15] Even Hellan Larsen, “Deliberate Nuclear First Use in an Era of Asymmetry: A Game Theoretical Approach,” Journal of Conflict Resolution 68, số 5 (2024): 849-874.

    [16] Robert E. Osgood, Limited war revisited (London: Routledge, 2019).

    Theo Nghiên Cứu Quốc Tế

    THỐNG KÊ TRUY CẬP
    • Đang online 72
    • Truy cập tuần 2012
    • Truy cập tháng 1723
    • Tổng truy cập 136501