lời bình : 1.2.2024 kết quả Cop 28 cho một tia hy vọng trong một tình trạng thảm họa khí hậu xãy ra liên tục và khắp các châu lục trong 10 năm qua .\
Cách đây 10 năm Vanhoanghean.com.vn đăng loạt bài giới thiệu sách Giấc mộng Trung Hoa [1], tác giả sách là đại tá Lưu Minh Phúc khẳng định trong thế kỷ XXI Trung Quốc sẽ soán ngôi bá chủ thế giới của Mỹ. Mạng này cũng từng giới thiệu cuốn Thế giới vừa nóng, vừa phẳng lại vừa chật chội [2] của Thomas Friedman, cây bút 3 lần đoạt giải Pulitzer, đưa ra các dự báo đáng sợ về môi trường sống của loài người.
khoảng năm 2013 Vietnamnet lại có bài viết về cuốn 100 năm tới: Một dự báo cho thế kỷ 21 [The Next 100 Years: A Forecast for the 21st Century (2009)] của George Friedman [3],người sáng lập và là Chủ tịch Công ty Dự báo chiến lược STRATFOR, một think tank phi chính phủ hàng đầu thế giới từng dự báo chính xác một số sự kiện chiến lược. Friedman là người Hungary gốc Do Thái theo gia đình di cư sang Mỹ khi mới 3 tuổi. Người ta thường nói dân Do Thái có trực giác nhạy bén, giỏi khái quát, giàu tưởng tượng, ít sa đà vào các chi tiết dễ gây lạc hướng, dám nghĩ tới những chuyện người khác không nghĩ tới.
Trên thế giới luôn có nhiều nhà dự báo tương lai, kể cả các nhà chiêm tinh. Không ít người đã dự báo về ngày tận thế của nhân loại. Kịch bản phim Năm 2012 được dựng trên cơ sở các dự đoán của nền văn minh Maya, một dân tộc giỏi thiên văn, khoa học, mấy nghìn năm trước đã tính toán chính xác một năm có 365,2420 ngày. Nền văn minh ấy để lại 2500 chữ khắc trên một bậc đá kim tự tháp hiện còn, cho biết lịch pháp Maya sẽ chấm dứt vào ngày đông chí 21/12/2012. Người ta suy ra đó sẽ là ngày tận thế của Trái Đất, gây ra bởi các tác động của thiên nhiên.
Trên báo The Australian hôm 21/6/2010, nhà khoa học tiến hoá Frank Fenner 95 tuổi nói nhân loại đã quá trễ trong việc tự cứu mình khỏi thảm họa diệt vong trong khoảng một thế kỷ tới, gây ra bởi nạn thiếu lương thực (do người đông quá và hiệu ứng nhà kính) và nạn tiêu xài hoang phí.
Nói chung ít người quan tâm tới các dự đoán quá xa xôi; nhưng khi đó là dự đoán của những bộ óc thông thái thì chớ nên bỏ qua, nhất là các dự đoán liên quan tới tương lai đất nước VN mình. Thí dụ Thomas Friedman từ 2010 nói về vấn đề nước biển dâng cao trong thế kỷ này, có lẽ người Việt Nam cần quan tâm ngay từ bây giờ nếu không muốn mất trắng hai vựa lúa nuôi sống cả dân tộc, bởi lẽ việc xây đập ngăn biển kiểu Hà Lan cần làm dần dần từ hàng dăm chục năm trước khi nước biển dâng cao (tuy nó không tốn nhiều tiền và xi măng như dự án đường sắt cao tốc xuyên Việt).
Ngày 13/12/2023 , Hội nghị lần thứ 28 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) kết thúc muộn hơn gần 1 ngày so với lịch dự kiến ban đầu. Các nhà đàm phán đến từ gần 200 quốc gia đã thông qua thỏa thuận cuối cùng của Hội nghị, thống nhất cắt giảm sâu phát thải khí nhà kính và nâng cao cam kết tài chính cho các nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu.
Bằng cách đặt nền móng cho một quá trình chuyển đổi nhanh chóng, công bằng, công lý, Thỏa thuận COP28 được coi là báo hiệu cho “sự khởi đầu của kết thúc" kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch.
Gõ búa kết thúc Hội nghị, Chủ tịch COP28 ông Sultan Al Jaber đã mô tả thỏa thuận này là một “chiến thắng thực sự” của sự thống nhất, đoàn kết và hợp tác; chiến thắng cho những người chân thành và chân chính trong việc giải quyết thách thức khí hậu toàn cầu. Đây là thành tựu lịch sự đáng tự hào trên tiến trình đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại và hành tinh.
Tổng thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), ông Simon Stiell nhấn mạnh: Ngay từ bây giờ, tất cả các chính phủ và doanh nghiệp cần biến những cam kết thành kết quả trong thực tế. Trong những năm quan trọng sắp tới, quyết tâm của các Bên sẽ là động lực quan trọng nhất.
Quyết định Đánh giá nỗ lực toàn cầu (GTS) lần đầu tiên được xem là kết quả quan trọng nhất của Hội nghị COP28. GST bao gồm mọi yếu tố đang được đàm phán và có thể được các quốc gia sử dụng để đưa ra các kế hoạch hành động khí hậu mạnh mẽ hơn cho giai đoạn trước năm 2030 - với mục tiêu bao trùm là giữ giới hạn tăng nhiệt độ toàn cầu không quá 1,5°C vào cuối thể kỉ so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Phát biểu tại Phiên họp, Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ về biến đổi khí hậu ông John Kerry cho rằng: GST đã gửi thiệp mạnh cho thế giới về việc cần giữ mục tiêu 1,5 độ C, và Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật tiếp theo của các quốc gia phải phù hợp với mục tiêu này. Cụ thể là định hướng tăng gấp 3 năng lượng tái tạo; gấp đôi hiệu quả năng lượng, đẩy nhanh nỗ lực hướng tới giảm dần nhà máy nhiệt điện than không áp dụng các biện pháp giảm phát thải. “Lần đầu tiên trong lịch sử có 1 quyết định chuyển dịch từ năng lượng than sang năng lượng sạch, phù hợp với mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu” – ông John Kerry bày tỏ và nhấn mạnh vấn đề tài chính khí hậu cần có chính sách, hỗ trợ các đối tác, các nước đang phát triển có tương lai chống chịu với khí hậu và bền vững.
Báo cáo khoa học cho thấy lượng khí thải nhà kính toàn cầu cần phải được cắt giảm 43% vào năm 2030, so với mức năm 2019, để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C.
Trong ngắn hạn, các Bên cần đưa ra các mục tiêu giảm phát thải đầy tham vọng trên toàn nền kinh tế, bao gồm tất cả các loại khí nhà kính, các lĩnh vực và danh mục và phù hợp với giới hạn 1,5°C khi nộp NDC vào năm 2025 cho giai đoạn đến 2035.
Về quỹ tổn thất và thiệt hại, các Bên đã đạt được một thỏa thuận lịch sử về việc vận hành quỹ tổn thất và thiệt hại ngay ngày đầu tiên của Hội nghị. Đến nay, các Bên đã cam kết tổng cộng hơn 700 triệu USD cho Quỹ.
Về mục tiêu thích ứng toàn cầu, các Bên đã nhất trí về các mục tiêu thích ứng toàn cầu (GGA), trong đó phản ánh nhu cầu hỗ trợ tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực để đạt được mục tiêu.
Về tài chính khí hậu - 1 trong những nội dung quan trọng của hội nghị, Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) đã nhận được tổng mức cam kết tài trợ mới kỷ lục tại COP28, lên tới 12,8 tỷ USD từ 31 quốc gia, và vẫn còn những đóng góp dự kiến .
Chính phủ 8 quốc gia đã công bố các cam kết mới đối với Quỹ Các nước kém phát triển nhất và Quỹ Biến đổi khí hậu đặc biệt với tổng trị giá hơn 174 triệu USD. Trong khi đó, cam kết tài chính mới cho Quỹ thích ứng là gần 188 triệu USD.
Về trao quyền cho khí hậu và kế hoạch hành động giới, các Bên tiếp tục nhấn mạnh lại vai trò thiết yếu của việc trao quyền cho tất cả các bên liên quan tham gia vào hành động khí hậu; đặc biệt thông qua kế hoạch hành động về trao quyền cho khí hậu và kế hoạch hành động giới.
Các cuộc đàm phán về "khuôn khổ minh bạch tăng cường" tại COP28 đã đặt nền móng cho một kỷ nguyên mới trong việc thực hiện Thỏa thuận Paris. UNFCCC đã giới thiệu và thử nghiệm các công cụ báo cáo và đánh giá minh bạch tại COP28. Các phiên bản cuối cùng sẽ được cung cấp cho các Bên vào tháng 6/2024.
Tổ chức lương thực tại châu Âu rất lo lắng trước nguy cơ sản xuất lương thực trên thế giới gặp khó nếu nhiệt độ tăng cao, đặc biệt là những vùng bị ảnh hưởng trực tiếp như ĐBSCL của Việt Nam.
Biến đổi khí hậu đang có tác động lan rộng đến sản xuất nông nghiệp toàn cầu, từ các loại cây lương thực chủ lực như khoai tây và ngô đến các loại nông sản có giá trị thương mại hơn như ca cao và cà phê...
Tổ chức “Hành động chống nạn đói” (Action Against Hunger - AAH) nhân kỷ niệm Ngày Lương thực Thế giới (16.10) đã nêu bật sự đồng thuận về việc biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và an ninh lương thực. Trợ lý giám đốc truyền thông của AAH, Judith Escribano giải thích: “Không phải tất cả các loại cây trồng đều có nguy cơ như nhau”.
Trong khi các nhà nghiên cứu cảnh báo năng suất nông nghiệp chung sẽ giảm do khí hậu ấm lên, thì lượng mưa và thời tiết thay đổi lại có thể khiến một số cây trồng tăng năng suất. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2019 cho thấy năng suất các loại cây trồng như gạo và lúa mì đang giảm, trong khi thu hoạch lúa miến - loại cây chịu hạn tốt hơn - lại tăng trong cùng thời kỳ.
Escribano tiếp tục: “Không chỉ thời tiết mới ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Khi khí hậu ấm lên và thay đổi, sâu bệnh lây lan rộng hơn - tạo thêm một lớp khó lường khác cho hoạt động trồng trọt. Việc bảo quản thực phẩm cũng có thể trở nên khó khăn hơn vì nhiệt độ tăng cao khiến côn trùng và nấm mốc dễ sinh trưởng phá hoại nông sản”.
Cuộc khủng hoảng khí hậu cũng sẽ làm tăng tình trạng suy dinh dưỡng toàn cầu thông qua giảm cả sản lượng cũng như chất lượng thực phẩm, đồng thời làm tăng giá cả. Nhiệt độ cao hơn và nồng độ CO2 trong không khí tăng lên sẽ dẫn đến hàm lượng chất dinh dưỡng như sắt, kẽm và protein trong các loại cây trồng như đậu nành, lúa mì và gạo thấp hơn. Bà Escribano cảnh báo: “Vấn đề này đặc biệt đáng lo ngại ở những quốc gia có ít sự đa dạng về thực phẩm và nơi người dân dựa vào một hoặc hai loại thực phẩm thiết yếu trong bữa ăn”.
AAH đã xác định biến đổi khí hậu có thể tác động như thế nào đến 8 loại cây trồng chính được sản xuất cho ngành công nghiệp thực phẩm như sau:
Bắp (hay còn gọi là ngô)
Sản lượng ngô toàn cầu có thể sẽ giảm mạnh vào năm 2050 do nhiệt độ thay đổi và lượng mưa suy giảm, hoạt động thất thường. Tất cả các khu vực đang phát triển trồng ngô quy mô như Mỹ và Brazil sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi này.
Escribano cho biết: “Nông dân sản xuất nhỏ đặc biệt phụ thuộc vào mưa đúng thời lượng để trồng ngô và biến đổi khí hậu đã làm xáo trộn thời lượng mưa”, đồng thời cảnh báo: “Ở những nơi như Mozambique, nơi ngô được trồng để cung ứng cho nhu cầu lương thực trong nước, điều này có thể sẽ gây ra thiệt hại nặng nề”.
Lúa mì
Ở những khu vực mát mẻ hơn như châu Âu và Bắc Mỹ, sản lượng lúa mì có thể tăng hơn 5% nếu lượng mưa đảm bảo. Tuy nhiên, ở những khu vực dễ bị tổn thương hơn như Ấn Độ, Trung Mỹ và châu Phi, sản lượng có thể giảm từ 3% trở lên. Vì Ấn Độ sản xuất 14% lượng lúa mì của thế giới nên việc sản lượng giảm ở các khu vực trồng trọt khô và nóng sẽ có tác động đáng kể đến các gia đình trồng lúa mì ở Ấn Độ và hàng triệu người sống dựa vào chúng.
Lúa gạo
Đối với hơn 3,5 tỉ người (chủ yếu ở châu Á), gạo cung cấp hơn 20% lượng calo hằng ngày và nhu cầu ngày càng tăng. Tuy nhiên, năng suất lúa trên toàn cầu có thể giảm hơn 5,5% nếu nhiệt độ tăng thêm 1,5 độ C. Một số ước tính còn dự đoán sản lượng có thể giảm 11% vào năm 2050.
Nếu vào cuối thế kỷ này, nhiệt độ trung bình của hành tinh đạt mốc cao hơn 2,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, người ta cho rằng một nửa đồng bằng sông Cửu Long, nơi xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, có nguy cơ chìm dưới nước.
ĐBSCL là vựa lúa của Việt Nam - Ảnh: VGP News
Nông dân trên khắp châu Á - gồm các quốc gia đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam và ở châu Phi - nơi Nigeria là nước sản xuất gạo lớn nhất lục địa - sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Tại Bangladesh, nông dân đã bị mất mùa lúa do nắng nóng và lượng mưa thấp trong mùa trồng trọt, dẫn đến hơn 168.000 mẫu lúa bị tàn phá. Các cánh đồng ven biển đặc biệt gặp nguy hiểm do mực nước biển dâng cao, do nước biển có thể tràn vào vùng đất khô hạn, phá hoại cây lúa.
Khi cuộc khủng hoảng khí hậu đang đặt ra câu hỏi về tương lai của lúa gạo, tại châu Âu, dự án Gạo châu Âu của EU đang nâng cao nhận thức về trồng lúa ở châu Âu.
Đậu nành
Sự phổ biến ngày càng tăng của đậu nành đang thúc đẩy nạn phá rừng góp phần làm tăng lượng carbon. Xu hướng này dễ nhận thấy nhất ở Nam Mỹ, nơi nông dân đang tăng cường sản xuất đậu nành để xuất khẩu sang Trung Quốc và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thức ăn chăn nuôi công nghiệp.
Tác động của biến đổi khí hậu đến năng suất đậu nành khá khác nhau, vì các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng cây đậu nành phản ứng thuận lợi với nồng độ CO2 cao hơn trong không khí.
Escribano chỉ ra: “Sản lượng đậu nành cũng có thể tăng nếu nông dân chuyển đổi từ các loại cây trồng khác, chẳng hạn như lúa mì, hoặc mở rộng sang các vùng đất có rừng trước đây - điều đang xảy ra ở Amazon và có thể xảy ra ở những khu vực có điều kiện lý tưởng để trồng đậu nành nhờ mát mẻ, như bang New York và miền Nam Canada. Tuy nhiên, ngay cả khi sản lượng thu hoạch tăng trong thời gian tới, hầu hết các nhà khoa học đều dự đoán rằng sản lượng vào cuối thế kỷ này sẽ giảm do căng thẳng ngày càng gia tăng về nhiệt độ và nguồn nước”.
Khoai tây
Đến năm 2050, sản lượng khoai tây toàn cầu có thể giảm tới 9%. Theo AAH, vì khoai tây cần được cấp nước ổn định để phát triển nên sẽ có ít diện tích thích hợp cho việc sản xuất khoai tây hơn. Ở những nơi trồng khoai tây phụ thuộc vào băng tuyết tan trên núi, như bang Idaho ở Mỹ, hoặc mùa mưa ổn định như Bolivia, nông dân sẽ cần điều chỉnh giống hoặc đầu tư vào hệ thống tưới tiêu để duy trì sản lượng.
Chuối
Chuối được trồng ở vùng nhiệt đới dưới dạng hoa quả xuất khẩu hoặc làm nguồn thực phẩm địa phương. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng do nhiệt độ tăng trong 20 năm qua, sản lượng chuối đã giảm 43%. Các giống chuối phổ biến cũng đang bị đe dọa bởi các bệnh như bệnh sọc đen trên lá, có thể lây lan nhanh hơn và xa hơn khi thời tiết nóng hơn. Tuy nhiên, AAH nhấn mạnh rằng những thay đổi về thời tiết cũng có thể đồng nghĩa với việc có thêm đất để trồng chuối vào năm 2070.
Ca cao
Escribano cảnh báo nhu cầu về sô cô la đang tăng lên và “khả năng sản xuất ca cao khó có thể theo kịp”. Bờ Biển Ngà và Ghana ở Tây Phi chiếm một nửa sản lượng ca cao của thế giới và khu vực này đang phải hứng chịu lượng mưa và gió nóng thất thường. Trong khi đó, hạt ca cao chỉ phát triển tốt trong những điều kiện rất khắt khe.
Escribano cho biết: “Chúng ưa nhiệt độ ổn định, độ ẩm cao và lượng mưa thường xuyên”. Do vậy, nhiệt độ tăng đang thúc đẩy việc di canh ca cao lên những nơi có độ cao hơn, nơi đơn giản là có ít đất hơn và khiến nạn phá rừng trầm trọng hơn.
Cà phê
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu có giá trị đối với nhiều hộ nông dân nhỏ. Ở các quốc gia xuất khẩu cà phê lớn, loại cây này mang lại cơ hội kinh tế trên khắp đất nước thông qua trồng trọt, chế biến, buôn bán… và các vai trò liên quan. Theo Escribano, tất cả đều có thể gặp rủi ro nên tình cảnh của cà phê cũng tương tự như các loại cây trồng khác. Ethiopia, nước sản xuất cà phê hàng đầu châu Phi, có khả năng mất 25% sản lượng cà phê vào năm 2030.
Những gì có thể được thực hiện?
Giống như nhiều tổ chức khác, AAH đề xuất để tránh gián đoạn nguồn cung, nông dân có thể cần mở rộng sản xuất hoặc áp dụng các kỹ thuật mới để đạt được năng suất tương đương. Một số loại cây trồng như cà phê có thể di canh trồng ở những khu vực mới để phù hợp với biến đổi khí hậu. Nông dân cũng có thể cần phải bắt đầu trồng các loại cây trồng quen thuộc có khả năng chống chịu tốt hơn và phù hợp với biến đổi khí hậu hơn hoặc các loại thực phẩm mới hoàn toàn.
Escribano tiết lộ: “Tổ chức chúng tôi đang thực hiện một số biện pháp để xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững hơn. Đầu tiên, chúng tôi hướng dẫn nông dân các kỹ thuật trồng trọt thông minh với biến đổi khí hậu và giới thiệu các loại cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu để giúp họ tận dụng tối đa nguồn tài nguyên đang cạn kiệt. Thứ hai, chúng tôi đang sử dụng các phương pháp tiếp cận sinh thái nông nghiệp để nâng cao hiệu quả và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Cuối cùng, chúng tôi đang tổ chức các khóa đào tạo ngoài đồng cho nông dân, nơi nông dân có thể thử nghiệm và thực hành những gì họ đã học được trước khi áp dụng các bài học đó vào chính mảnh đất của mình.
“Thị hiếu của người tiêu dùng cũng có thể cần phải thay đổi, vì khí hậu biến đổi có thể đồng nghĩa với việc phải thích nghi với các loại thực phẩm mới và hàng tỉ người trên thế giới phải thay đổi thực đơn. Cần có thời gian để giúp nông dân tìm tòi chuẩn bị cũng như thích ứng thành công bằng cách tìm hiểu về các loại cây trồng mới và kỹ thuật trồng trọt mới - đồng thời để mọi người ở khắp mọi nơi tập thói quen ăn uống mới”.