Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi tại sao VN chưa có Messi với Ronaldo. Nhưng cũng có thể có một số khía cạnh cụ thể, nhất là khía cạnh cá nhân, giải thích được việc tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh.
1.Đầu tiên là giới. Ở Tàu học giới của họ có một nhóm gọi là các “công cộng trí thức phần tử”. Tức là các nhà trí thức phục vụ mục đích công. Vương Hộ Ninh thuộc giới này. Việt Nam không có nhóm này. Sẽ giải thích thêm một chút ở dưới.
Vương Hỗ Ninh là “phần tử trí thức công cộng”, nhưng xuất thân của ông ấy là một nhà khoa học chính trị. Rồi sau này ông trở thành một nhà triết học chính trị. Ở Việt Nam rất ít nhà khoa học chính trị thuộc khu vực công. (Nhà khoa học ở đây hiểu theo đúng nghĩa đen). Hoặc có thể là chưa có, không có một nhà khoa học chính trị thực sự nào đang ở khu vực công.
2.Tất nhiên, Việt Nam không có một nhà triết học nào (nói chung) và không có một nhà triết học chính trị nào nói riêng. Đương đại lại càng không.
Trung Hoa thì triết học lại quá nhiều, các nhà triết học chính trị (dùng triết học như một lý thuyết để trị quốc) cũng có những nhân vật tầm cỡ thế giới. Có thể kể đến Hàn Phi (rất nổi tiếng ở VN), hoặc Đổng Trọng Thư (kém nổi tiếng hơn) nhưng lý thuyết trị quốc và kiểm soát xã hội của ông ấy còn tồn tại đến tận ngày nay ở VN. Cả hai ông này đều cách xa chúng ta cả 2000 năm.
Thế kỷ XX ở TQ cũng có những triết gia và triết thuyết lớn. Ví dụ Tân Sự luận (một triết thuyết nhằm cải cách TQ thời hậu Thanh) có hai ý tưởng quan trọng là “Cộng tướng” và “Thù tướng”. Cộng tướng là dung nạp các dị biệt. Nó rất giống với thể chế dung nạp mới được giải Nobel gần đây (nhưng ra đời sớm hơn cũng nên). Thù tướng là coi trọng cái riêng, phát huy cái đặc sắc.
Cộng tướng là nền tảng lý thuyết “Ba Đại Diện” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Giang Trạch Dân.
Thù tướng là nền tảng của các thuyết “Trung Hoa Mộng”, Chủ nghĩa xã hội Đặc sắc TQ” và “Tân kỷ nguyên” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Tập Cận Bình.
3.Khi mà đất nước Trung Hoa rơi vào vực xoáy Văn Cách, mà Tập là con nhà lãnh đạo đỏ còn phải về quê, thì Vương Hỗ Ninh vẫn được học đại học, khoa tiếng Pháp.
Chủ đề nghiên cứu của Vương là chủ quyền (sovereignty). Ta có thể đoán là ở cỡ tuổi đấy, ở chế độ chuyên chính vô sản Maoist đấy, học tiếng Pháp, hẳn sẽ đọc gì. Câu trả lời rất dễ: Hobbles. Và có thể đoán thêm: Machiavelli.
Với Vương thì chủ quyền phải do nhà nước nắm. Nhà nước ấy phải là một nhà nước chuyên chính. Dần dà theo thời gian, chủ quyền được hiểu rộng ra không chỉ là chủ quyền lãnh thổ (mà nay còn thiếu Đài Loan) mà còn là chủ quyền văn hoá, chủ quyền kinh tế, chủ quyền thương mại, chủ quyền trên không gian mạng (đây là khái niệm được thực thi sớm nhất nên các công ty internet Mỹ phải đứng ngoài TQ)…
Các chủ quyền ấy phải ở tầm vóc và bối cảnh toàn cầu. Tất cả các khái niệm lớn về chủ quyền ấy, phải nằm trong tay một nhà nước chuyên chính, đúng hơn là nằm trong một nhóm quyền lực tập trung (centralized) và dần dần nằm trong tay một cá nhân thống nhất mọi quyền lực (united). Tất nhiên một nhân vật “nhất thống thiên hạ” ấy phải là TBT, nhất là vị TBT mà Vương Hỗ Ninh đang phục vụ. (Lãnh đạo hạt nhân.)
Đến đây ta thấy dấu ấn của Machiavelli và Trần Vân trong thuyết trị nước của Vương Hỗ Ninh. Machiavelli là người Vương hâm mộ, vì nước Tàu rất cần một quân vương và quân vương ấy sử dụng chủ thuyết kiểu Machiavelli:
+ trước là không để đất nước cát cứ, phân rã và tan vỡ thành nhiều nước. Việt Nam là trường hợp rất hiếm hoi ly khai khỏi Tàu sau 1000 năm bị kiểm soát. Và hiện vẫn là mẫu hình cho anh em Hồng Công, Tây Tạng vân vân.
+ sau là một quân vương nhất thống thiên hạ trên tất cả các loại chủ quyền ở bình diện quốc tế.
Nhưng thực ra hiện nay TQ vẫn chưa làm được ở chủ quyền luật pháp quốc tế, chủ quyền đồng tiền quốc tế, chủ quyền hộ chiếu quốc tế, tức là vẫn thua xa Mỹ, thậm chí chưa có cả chủ quyền công nghệ lõi, vẫn bị phụ thuộc. Mặc dù Vương Hỗ Ninh phê phán nền dân trị Mỹ trong trước tác kinh điển của ông “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc”, nhưng Mỹ tự nó cũng tiến hoá rất dị, nên những gì Vương nhìn nhận (điểm yếu) của dân chủ Mỹ có thể cũng đã lỗi thời.
5.Khi viết luận văn “Chủ quyền nhà nước” và trước tác “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc” thì Vương Hộ Ninh đã xác định cho mình một trường phái, đó là Tân Chuyên chính. Chuyên chính vô sản của Mác Lê Mao vốn rất thành công ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc, nhưng đến lúc Vương Hộ Ninh bước vào đại học thì nó đã, với tư duy của Vương, có vấn đề.
Trung Quốc tiếp cận triết học cổ Trung Quốc rất đa dạng. Cách thô sơ nhất là “tín cổ” rất quen thuộc ở VN. Tức là các vĩ nhân cổ xưa nói không có bao giờ sai. Mác Lê bác Hồ nói gì cũng là chân lý. Nhưng họ có một cách khác tiến bộ hơn, là “thích cổ”, tức là nỗ lực giải thích các triết thuyết cũ, bất chấp nó đã thành công thế nào, để xem nó đúng sai ở đâu, và nay áp dụng được gì.
Là một nhà khoa học chính trị, lại là một giáo sư quan hệ quốc tế, tầm vóc và tư tưởng của Vương Hỗ Ninh đã đạt đến tầm một nhà triết học chính trị hiện đại, đem lý thuyết của mình áp luôn vào ba đời tổng bí thư liên tiếp. Rất may cho ông Vương này, tổng bí thư thứ ba mà ông phục vụ, là bậc quân vương đúng trong mơ của ông, mạnh mẽ, lạnh lẽo, đáng sợ và thu được quyền lực khắp nơi về một mối. Ba năm trước, sau Đại hội 20 của ĐCS TQ, Vương Hỗ Ninh tung ra “hai xác lập” “bốn ý thức” xoay quanh vị trí hạt nhân và tư tưởng của quân vương Tập Cận Bình.
6.Nhưng con đường từ một giáo sư quan hệ quốc tế ở Phúc Đán, trở thành một nhà khoa học chính trị kiêm “công cộng trí thức phần tử”, đòi hỏi một sự dũng cảm. Ở VN các trí thức dũng cảm thường sẽ làm một hành động dũng cảm: phản biện xã hội, phản biện chính sách, hoặc phê phán vài lãnh đạo. Dũng cảm của Vương Hộ Ninh khác hẳn, ông này dũng cảm làm ngược lại các trí thức VN hehe. Ông ta nhìn vào thất bại của chủ nghĩa chuyên chính vô sản, dũng cảm bảo vệ nó, cải cách nó, dẫn dắt nó, cài cắm nó. Toàn những việc ủng hộ “cái ác”. Tức là cực kỳ dũng cảm để thành một triết gia Machiavellian.
Mà thật bất ngờ, Machiavelli bị coi là người xấu, tên của ông thành tính từ chỉ sự độc ác nham hiểm, còn Vương Hộ Ninh thì lại được tò mò tìm hiểu, và hâm mộ.
Dũng cảm không chưa đủ. Ông còn phải may mắn lấy một người vợ thuộc loại trâm anh thế phiệt đỏ, để từ Thượng Hải đánh tiếng được tới Trung Nam Hải. Khi vào được Trung Nam Hải, ông lại may mắn bỏ được bà vợ bậc thang này, lấy một cô sinh viên trẻ hơn, để nạp thêm năng lượng và tri thức chuyên ngành (quan hệ quốc tế, vì cô này dạy ngành này ở Phúc Đán). Rồi khi công thành danh toại, ông lấy người vợ thứ ba, rất trẻ rất đẹp, xuất thân ở tổ phục vụ lãnh đạo cao cấp.
Ở đẳng cấp chính trị và địa vị xã hội rất cao, ông đâm ra chả cần trâm anh thế phiệt hay học vấn làm gì. Cứ trẻ và ngoan có lẽ là hai tiêu chí tốt nhất. Đó cũng là triết lý quan trọng nhất của một đời người đàn ông, dù ông ta có là nhà triết học chính trị thành công nhất lịch sử TQ.