Câu hỏi rất nhiều người hay hỏi nhà cháu, nhưng nhà cháu không quen Tập Cận Bình để hỏi y mà trả lời. Tuy nhiên, có ông Timothy R. Heath, là chuyên gia của RAND Corporation, một think tank phi lợi nhuận, phi đảng phái toàn cầu có trụ sở tại Santa Monica (CA, Hoa Kỳ) dự báo trong bài viết “The Chinese Military's Doubtful Combat Readiness” mới đăng trên website của think tank này vào ngày 27/1/2025
Nhà cháu dùng goole dịch sang tiếng Việt và biên tập lại cho “thuần Việt” và đăng lên đây hầu những ai quan tâm:
Mở đầu bài viết, Timothy R. Heath chốt” một câu như sau: “Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) Trung Quốc vẫn tập trung vào việc duy trì sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), không chuẩn bị cho chiến tranh”.
SỰ SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU ĐẦY NGHI NGẠI CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC - Timothy R. Heath
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA BÀI BÁO
PLA đã đạt được những thành tựu hiện đại hóa ấn tượng. Tuy nhiên, PLA có thể chiến đấu tốt như thế nào với vũ khí và thiết bị tiên tiến của mình vẫn chưa rõ ràng. Bằng cách xem xét bằng chứng về vai trò của PLA trong an ninh quốc gia, tôi trình bày những điểm chính sau đây trong bài báo này:
• PLA vẫn tập trung cơ bản vào việc duy trì sự cai trị của ĐCSTQ thay vì chuẩn bị cho chiến tranh. Những thành tựu hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc được thiết kế trước hết và quan trọng nhất là để củng cố sức hấp dẫn và uy tín của sự cai trị của ĐCSTQ.
• Trong suốt lịch sử của PLA, họ đã ưu tiên lòng trung thành chính trị và việc thực thi sự cai trị của ĐCSTQ hơn là sự sẵn sàng chiến đấu, đặc biệt là kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Những thành tựu hiện đại hóa gần đây không làm thay đổi cơ bản định hướng chính trị của PLA.
• Khi sự suy thoái của Trung Quốc tăng tốc, nhiệm vụ duy trì sự cai trị của ĐCSTQ của PLA có thể sẽ trở nên cấp bách hơn, trong khi nhiệm vụ cải thiện khả năng sẵn sàng chiến đấu có thể sẽ còn giảm sút hơn nữa.
• Triển vọng về một cuộc chiến tranh quy mô lớn, cường độ cao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là không thể xảy ra tại thời điểm này. Nếu căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc leo thang thành thù địch, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những động cơ mạnh mẽ để ủng hộ các phương pháp chiến đấu gián tiếp hơn là chiến tranh thông thường quy mô lớn.
• Kế hoạch quốc phòng của Hoa Kỳ nên xem xét một khuôn khổ đe dọa nâng cao một loạt các mối đe dọa rộng hơn cùng với khả năng xa vời về chiến tranh thông thường với Trung Quốc.
Là một trong những quân đội lớn nhất và hiện đại nhất thế giới, năng lực chiến đấu của Trung Quốc dường như rất đáng gờm. Trung Quốc có nhiều tàu chiến hơn Hải quân Hoa Kỳ và có thể sớm có nhiều máy bay chiến đấu hơn Không quân Hoa Kỳ. Hơn nữa, chất lượng máy bay tàng hình, tàu chiến, tàu ngầm và tàu sân bay của Trung Quốc chỉ kém quân đội Hoa Kỳ. Trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như tên lửa siêu thanh, Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ. Các nhà bình luận cảnh báo rằng Trung Quốc đã làm lu mờ quân đội Hoa Kỳ để trở thành “quân đội mạnh nhất” ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Các quan chức cấp cao cũng tuyên bố tương tự rằng quân đội Trung Quốc có thể đạt được lợi thế quân sự quyết định vào năm 2027, sau đó, sự cám dỗ chiến tranh đầy mạo hiểm với Đài Loan có thể chứng tỏ là việc không thể cưỡng lại. Trong các trò chơi chiến tranh mô phỏng một cuộc chiến tranh xuyên eo biển Đài Loan, lực lượng quân đội Trung Quốc thường xuyên gây ra những tổn thất nặng nề cho lực lượng Hoa Kỳ can thiệp.
PLA chắc chắn có vũ khí, khí tài lớn và ấn tượng. Tuy nhiên, khả năng chuyển sức mạnh vật chất đó thành sức mạnh chiến đấu của Trung Quốc vẫn còn lâu mới được chứng minh. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng quân đội đôi khi không sử dụng hiệu quả vũ khí tiên tiến của mình trong chiến đấu. Ví dụ, quân đội nhà Thanh được trang bị tàu chiến vượt trội về chất lượng đã thua trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất (1894-1895) trước đối thủ Nhật Bản có kỹ năng và quyết tâm hơn. Tương tự như vậy, trong Nội chiến Trung Quốc, quân đội Quốc gia suy sụp tinh thần và được huấn luyện kém, sở hữu vũ khí và trang thiết bị vượt trội, đã thua đối thủ Cộng sản có nhiều nguồn lực hơn và kiên quyết hơn. Ảo tưởng về sức mạnh quân sự được nuôi dưỡng bởi kho vũ khí tiên tiến dồi dào vẫn tiếp diễn. Nhiều chuyên gia, bị thuyết phục về sự vượt trội áp đảo của lực lượng quân sự Nga, đã đánh giá quá cao khả năng của Moscow trong việc tràn vào Ukraine khi Nga xâm lược vào năm 2022.
PLA có thể chiến đấu tốt đến mức nào? Kể từ lần cuối cùng Trung Quốc tham chiến vào năm 1979, không có bằng chứng trực tiếp nào đưa ra phán đoán của các nhà phân tích. Các học giả đã cố gắng làm sáng tỏ câu hỏi này bằng cách nghiên cứu các văn bản học thuyết, hoạt động, huấn luyện và tập trận của PLA. Kết quả thu được không đồng đều. Một mặt, PLA đã nêu rõ học thuyết đầy tham vọng về chiến tranh chung và chứng minh năng lực trong các nhiệm vụ phi chiến tranh, bao gồm tuần tra chống cướp biển, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Các cuộc tập trận của PLA cũng cho thấy một số khả năng thực hiện các hoạt động chung - ít nhất là trong môi trường huấn luyện. Mặt khác, Trung Quốc vẫn tiếp tục tránh xa mọi hoạt động chiến đấu và phương tiện truyền thông của nước này đầy rẫy những lời chỉ trích gay gắt về việc quân đội không có khả năng thực hiện các hoạt động chung tích hợp và thiếu khả năng sẵn sàng chiến đấu. Hơn nữa, mối tương quan yếu giữa huấn luyện thời bình và hiệu suất thời chiến càng tạo thêm lý do để nghi ngờ. Tóm lại, hầu như tất cả quân đội đều huấn luyện và tổ chức các cuộc tập trận. Tuy nhiên, ít quân đội nào chiến đấu tốt như quân đội Hoa Kỳ. Ví dụ, quân đội Nga thường xuyên tổ chức các cuộc tập trận quy mô lớn để thực hành các hoạt động chiến đấu trước khi họ thể hiện kém trên chiến trường ở Ukraine.
Một cách tiếp cận đáng ngạc nhiên là bị bỏ qua là xem xét câu hỏi cơ bản: “Mục đích của quân đội Trung Quốc là gì?” Câu hỏi này có vẻ kỳ lạ, đặc biệt là vì tất cả các quân đội đều có chung nhiệm vụ bảo vệ nhà nước khỏi các kẻ thù bên ngoài.
Các quân đội cũng có xu hướng có một số điểm tương đồng về ngoại hình (ví dụ: đội hình có tổ chức của quân đội mặc đồng phục được trang bị để chiến đấu). Tuy nhiên, những điểm tương đồng bề ngoài giữa các quân đội làm lu mờ những cách thức hoàn toàn khác nhau mà sức mạnh quân sự có thể được sử dụng để phục vụ nhu cầu của các nhà lãnh đạo chính trị.
Việc xây dựng quân đội cho một số mục đích nhất định khiến nó không phù hợp với những mục đích khác. Ví dụ, ở những quốc gia có chính phủ yếu và không an toàn, các nhà lãnh đạo có thể xây dựng quân đội để ngăn chặn đảo chính, duy trì trật tự trong nước và chống lại quân nổi dậy. Các nhà lãnh đạo của những quốc gia như vậy có thể ưu tiên các biện pháp tăng cường độ tin cậy chính trị ngay cả khi chúng làm suy yếu khả năng chống lại các kẻ thù nước ngoài của quân đội. Các biện pháp chống đảo chính, chẳng hạn như thăng chức theo lòng trung thành thay vì công trạng, phân mảnh các cấu trúc chỉ huy và mạng lưới chỉ huy và kiểm soát tập trung cao độ, làm giảm hiệu quả của quân đội trên chiến trường. Thật vậy, quân đội càng tập trung vào việc chống đảo chính thì hiệu suất chiến trường của họ càng có xu hướng tệ hơn.
Ngược lại, một quân đội được xây dựng để chiến thắng kẻ thù bên ngoài có thể ưu tiên thăng chức dựa trên công trạng, hệ thống chỉ huy linh hoạt và đạo đức nghề nghiệp duy trì lòng trung thành với các thể chế chính trị và quân sự hơn là lòng trung thành với các nhà lãnh đạo chính trị cá nhân. Một quân đội như vậy có thể chứng minh hiệu quả chống lại kẻ thù nước ngoài nhưng không phù hợp với các can thiệp chính trị trong nước. Tóm lại, quân đội vốn là các thực thể chính trị phản ánh các ưu tiên và mệnh lệnh của các quốc gia mà họ phục vụ.
Mỗi quân đội vốn được tối ưu hóa để phục vụ một số chức năng nhất định nhưng không phải các chức năng khác.
Trong bài báo này, tôi lập luận rằng quân đội Trung Quốc về cơ bản tập trung vào việc duy trì sự cai trị của ĐCSTQ, hơn là chuẩn bị cho chiến tranh. Bài báo này tiến hành theo cách sau. Trong phần đầu tiên, tôi sẽ xem xét lại lịch sử của PLA, lưu ý xu hướng lịch sử của PLA là ưu tiên thực hiện các mục tiêu chính trị của ĐCSTQ hơn là khả năng sẵn sàng chiến đấu. Trong phần thứ hai, tôi lập luận rằng quá trình hiện đại hóa quân đội cuối cùng được thúc đẩy bởi mệnh lệnh duy trì ĐCSTQ nắm quyền thay vì chuẩn bị cho chiến tranh. Trong phần thứ ba, tôi sẽ khám phá những gì có thể thay đổi khi Trung Quốc bước vào giai đoạn suy thoái kéo dài. Một Trung Quốc suy yếu có thể dẫn đến một PLA ngày càng tập trung hơn vào nhiệm vụ thực thi sự cai trị của ĐCSTQ. Trong phần cuối cùng, tôi đưa ra một số cân nhắc cho các nhà phân tích và người ra quyết định.
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA PLA: ỦNG HỘ ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC
PLA là loại quân đội nào? Quân đội Trung Quốc được xây dựng để chiến đấu? Hay là quân đội được xây dựng để giúp ĐCSTQ đạt được các mục tiêu chính trị của mình? Ngay từ những năm đầu thành lập, chức năng chính của PLA đã được xác định bởi sứ mệnh hỗ trợ ĐCSTQ theo đuổi quyền lực chính trị. Thật vậy, PLA được sinh ra như một “cánh vũ trang” của ĐCSTQ và vẫn giữ nguyên bản sắc chính thức này cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cách PLA thực hiện nhiệm vụ đó đã thay đổi tùy theo tình hình an ninh của Trung Quốc và các mục tiêu của ĐCSTQ.
Vào đầu thế kỷ 20, ĐCSTQ đã tiến hành một cuộc chiến tranh nổi loạn để giành chính quyền trong bối cảnh chiến tranh tàn phá. Theo đó, ĐCSTQ rất cần một PLA (hay Hồng quân, như cách gọi từ năm 1929 đến năm 1949) có khả năng chiến đấu hiệu quả để đạt được các mục tiêu của mình. Khi Mao Trạch Đông tuyên bố trong bài phát biểu năm 1938 rằng “quyền lực phát triển từ nòng súng”, ông đã nói như vậy trong bối cảnh Trung Quốc bị tàn phá bởi nội chiến và cuộc xâm lược của quân đội Nhật Bản. Trong bài phát biểu đó, Mao giải thích rằng “bất kỳ ai muốn nắm giữ và duy trì quyền lực nhà nước phải có một đội quân mạnh”. ĐCSTQ cần một quân đội mạnh mẽ để chống lại các đối thủ Quốc dân đảng, quân phiệt và Nhật Bản. Do ĐCSTQ cần bạo lực để đạt được mục tiêu chính trị là giành chính quyền, nên có rất ít sự đánh đổi giữa mục tiêu bao trùm của ĐCSTQ là giành chính quyền và nhu cầu về một quân đội hiệu quả chiến đấu.
Tuy nhiên, giai đoạn hiệp lực này giữa các mục tiêu chính trị và mục tiêu quân sự của ĐCSTQ về hiệu quả chiến đấu phần lớn đã kết thúc sau khi ĐCSTQ giành chiến thắng trong cuộc nội chiến. Khi ĐCSTQ giành chính quyền, các mối đe dọa bên ngoài đã lắng xuống, mặc dù chúng vẫn tồn tại ở dạng giảm bớt. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Trung Quốc lo ngại rằng lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở biên giới của mình có thể xâm lược. Bắc Kinh đã can thiệp một phần để ngăn chặn khả năng đó và một phần để ngăn chặn những kẻ thù trong nước có thể nổi loạn chống lại sự cai trị của ĐCSTQ. Vào những năm 1960, căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô, dẫn đến việc triển khai lực lượng chiến đấu lớn dọc biên giới. Nhưng các mối đe dọa bên ngoài đối với sự cai trị của ĐCSTQ đã biến mất vào cuối những năm 1970 khi Chiến tranh Lạnh suy yếu. Vào những năm 1980, Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng Trung Quốc không còn phải đối mặt với viễn cảnh chiến tranh lớn nữa.
Trái ngược với mối đe dọa dần dần giảm bớt của cuộc xâm lược bên ngoài, ĐCSTQ sau Chiến tranh Triều Tiên phải đối mặt với mức độ nguy hiểm cao liên tục từ bên trong chính đảng và từ công chúng. Xung đột phe phái và tranh chấp ý thức hệ gần như đã xé nát đất nước. Để đối phó với những mối đe dọa trong nước này, PLA ưu tiên độ tin cậy chính trị hơn là khả năng sẵn sàng chiến đấu. PLA đã trải qua quá trình nhồi sọ không ngừng, tăng cường kiểm soát chính trị, vun đắp lòng trung thành và tham gia vào các cuộc đấu đá nội bộ đảng. PLA đã nhiều lần can thiệp để đàn áp các phe phái đối địch và các cuộc biểu tình quần chúng có thể gây bất ổn cho toàn bộ đất nước. Vào những năm 1960, PLA đã ngừng giao tranh nội bộ trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Quân đội PLA đã đàn áp những nhà tư tưởng Maoist mất kiểm soát vào những năm 1970 và dập tắt các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo trong vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989.
Việc PLA tập trung vào an ninh trong nước đã phải trả giá - khả năng chiến đấu của họ suy giảm. Khi PLA xâm lược Việt Nam vào năm 1979, lực lượng dân quân Việt Nam đã gây ra tổn thất nặng nề cho quân đội Trung Quốc, vốn bị ảnh hưởng bởi học thuyết lỗi thời, tinh thần thấp, khả năng sẵn sàng chiến đấu kém và khả năng lãnh đạo yếu kém. Cú sốc từ Chiến tranh Trung-Việt đã thúc đẩy động lực hướng tới hiện đại hóa, nhưng PLA chỉ có những cải thiện khiêm tốn về khả năng chiến đấu trong những năm 1980 và 1990. Theo sự lãnh đạo của đảng, PLA đắm mình vào các dự án thương mại và trải qua nạn tham nhũng tràn lan. Tuy nhiên, ban lãnh đạo trung ương đã dung túng cho nạn tham nhũng và suy thoái khả năng sẵn sàng chiến đấu trong những thập kỷ này vì PLA đã thực hiện đáng tin cậy nhiệm vụ kiểm soát các phe phái và duy trì sự cai trị của ĐCSTQ.
THỜI ĐẠI CẢI CÁCH: NGHỊCH LÝ CỦA QUÂN SỰ HIỆN ĐẠI HÓA CỦA TRUNG QUỐC
Năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã mở ra một chương mới trong quá trình phát triển của PLA khi ông mở ra một thời kỳ cải cách và mở cửa. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã từ bỏ tình trạng hỗn loạn chính trị của thời kỳ Mao Trạch Đông và chấp nhận một chương trình nghị sự chính trị mới tập trung vào phát triển nhanh chóng thông qua các chính sách thân thiện với thị trường và sự tham gia thực dụng hơn với thế giới. Tuy nhiên, kể từ những năm 1980, Trung Quốc đã chứng kiến sự xuất hiện của một nghịch lý: Trung Quốc không còn phải đối mặt với các mối đe dọa lớn nhưng vẫn xây dựng được một quân đội hùng mạnh và hiện đại.
Sự tập trung của Đặng vào phát triển quốc gia phần lớn là nhờ vào đánh giá của ông về một môi trường an ninh tương đối lành mạnh. Các nhà lãnh đạo sau này vẫn duy trì đánh giá này. Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình đều ủng hộ quan điểm rằng đất nước phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh lớn thấp và môi trường bên ngoài thuận lợi có lợi cho sự phát triển của quốc gia. Ví dụ, sách trắng quốc phòng năm 2019 của Trung Quốc nêu rõ rằng “hòa bình, phát triển và hợp tác cùng có lợi vẫn là xu hướng không thể đảo ngược của thời đại”. Nguồn tin tương tự mô tả tình hình an ninh Châu Á - Thái Bình Dương là “nói chung là ổn định”. Những nhà lãnh đạo này đã thừa nhận vô số mối nguy hiểm, bao gồm mối đe dọa về độc lập của Đài Loan, cạnh tranh quốc tế, tranh chấp lãnh thổ ở chuỗi đảo đầu tiên và dọc biên giới Ấn Độ, và những nguy cơ trong không gian mạng và những nơi khác. Nhưng không có mối nguy hiểm nào trong số này đe dọa trực tiếp đến sự cai trị của ĐCSTQ.
Đồng thời, các mối đe dọa nội bộ đối với sự cai trị của ĐCSTQ đã lan rộng trong thời kỳ Mao Trạch Đông phần lớn đã lắng xuống, một phần là do sự suy yếu của các phe phái tư tưởng và những thay đổi trong chiến lược quản lý của ĐCSTQ. Ngoài việc đưa ra các cải cách thân thiện với thị trường, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cải thiện việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, mở rộng các cơ hội kinh tế và bãi bỏ các biện pháp kiểm soát đối với đời sống cá nhân của từng người dân Trung Quốc, tất cả đều làm giảm sự phản đối của công chúng và giảm nguy cơ nổi loạn trên diện rộng. ĐCSTQ cũng áp dụng các phương pháp kiểm soát tinh vi hơn, bao gồm giám sát và các kỹ thuật kiểm duyệt tiên tiến. Sự suy yếu của hệ tư tưởng và những cải thiện trong việc thể chế hóa chính trị - bất chấp những sự bãi bỏ một phần của Tập - đã làm giảm nguy cơ xảy ra các cuộc đấu đá phe phái thời Cách mạng Văn hóa. Do đó, những thay đổi này phần lớn đã loại bỏ các loại mối đe dọa nội bộ thường thấy trong thời kỳ Mao.
Tuy nhiên, bất chấp các mối đe dọa tương đối thấp đối với quyền lực của ĐCSTQ từ các nguồn bên ngoài và phe phái, Trung Quốc đã giám sát quá trình hiện đại hóa quân đội của mình một cách đáng kinh ngạc và nhanh chóng.
Bắt đầu từ những năm 1990, PLA đã triển khai nhiều tàu ngầm, máy bay, tàu chiến và tên lửa tiên tiến, nhiều trong số đó gây ra mối đe dọa tiềm tàng đối với lực lượng Hoa Kỳ có thể can thiệp vào cuộc chiến giữa Trung Quốc và Đài Loan. Từ năm 2000 đến năm 2016, ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng hàng năm khoảng 10 %, mặc dù mức tăng trưởng này sau đó chậm lại còn khoảng 5-7 % mỗi năm. Theo các nguồn tin của chính phủ Trung Quốc, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc là 231 tỷ đô la vào năm 2024, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Ngược lại, vào năm 2003, ngân sách chính thức của PLA là khoảng 22 tỷ đô la.
Việc tăng mạnh chi tiêu quốc phòng đã thúc đẩy mối quan tâm toàn cầu. Phản ánh nỗi lo ngại ngày càng tăng của Hoa Kỳ, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, bắt đầu từ năm 1999, đã công bố chi tiết về sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc trong báo cáo thường niên Diễn biến quân sự và an ninh liên quan đến Trung Quốc. Nỗi lo sợ của Hoa Kỳ tăng lên trong những thập kỷ tiếp theo khi PLA bổ sung thêm vũ khí và thiết bị tiên tiến hơn. Báo động về năng lực chiến đấu của PLA tăng tốc sau khi Tập lên nắm quyền một phần là do giọng điệu hung hăng hơn của Tập Cận Bình liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ như Đài Loan và Biển Đông. Nhưng báo động này cũng bắt nguồn từ những diễn biến trong quân đội Trung Quốc. Tập chỉ đạo cải cách cơ cấu để đại tu tổ chức và học thuyết của PLA nhằm cải thiện khả năng chiến đấu như một lực lượng chung. Năm 2015, PLA đã tiến hành cải cách để cải thiện hiệu quả chiến đấu và thành lập hệ thống chỉ huy chung quốc gia và hệ thống chỉ huy chiến trường chung. Các bài phát biểu của lãnh đạo cấp cao cũng liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác chuẩn bị chiến tranh. Trong nhiều lần, Tập yêu cầu PLA phải “sẵn sàng chiến đấu” và phát triển năng lực “chiến đấu và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh”. Kết hợp với những cải tiến tích lũy về phần cứng quân sự, những thay đổi này đã làm dấy lên lo ngại rằng quân đội Trung Quốc cuối cùng đã bắt đầu coi chiến tranh là ưu tiên hàng đầu.
Đến năm 2015, các nhà nghiên cứu của RAND đã cảnh báo về “biên giới thống trị của Hoa Kỳ đang thu hẹp”, lưu ý rằng quân đội Trung Quốc đã “thu hẹp khoảng cách” về năng lực. Vài năm sau, các phương tiện truyền thông phương Tây thường xuyên khẳng định rằng quân đội Trung Quốc cạnh tranh với quân đội Hoa Kỳ và có lẽ có thể đánh bại Hoa Kỳ trong trận chiến. Nghịch lý thay, những thành tựu hiện đại hóa quân đội nhanh chóng lại trùng hợp với bằng chứng rõ ràng rằng PLA vẫn chưa chuẩn bị cho chiến tranh và tập trung vào việc duy trì sự cai trị của ĐCSTQ. Báo cáo thường niên năm 2010 của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gửi Quốc hội về các diễn biến quân sự và an ninh của Trung Quốc đã quan sát thấy rằng các chỉ huy PLA “ít hoặc không được đào tạo hoặc không có kinh nghiệm hoạt động trong môi trường chung”.
Trong số những thách thức, báo cáo lưu ý rằng “thiếu chỉ huy và nhân viên đủ tiêu chuẩn cho các hoạt động như vậy; thiếu hiểu biết về năng lực, trang thiết bị và chiến thuật của các lực lượng khác; và thiếu công nghệ tiên tiến để cho phép truyền thông và chia sẻ thông tin giữa các dịch vụ”. Hơn nữa, giới lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc khẳng định rằng nhiệm vụ hàng đầu của PLA vẫn là đảm bảo sự cai trị của ĐCSTQ.
Các nhà phân tích đã phải vật lộn để giải thích mâu thuẫn giữa hiện đại hóa nhanh chóng, khả năng sẵn sàng chiến đấu thấp và sự tập trung liên tục vào việc duy trì sự cai trị của ĐCSTQ. Các chuyên gia về quân đội Trung Quốc đã nhấn mạnh vai trò của Đài Loan là “hướng chiến lược chính” của Trung Quốc, cho rằng quá trình hiện đại hóa của PLA về cơ bản được thúc đẩy bởi sứ mệnh khuất phục Đài Loan. Các chuyên gia cảnh báo rằng việc thống nhất Trung Quốc với Đài Loan đã trở thành trọng tâm đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ và Bắc Kinh có ý định cuối cùng sẽ triển khai lực lượng quân sự để đạt được mục tiêu đó nếu các phương pháp hòa bình thất bại.
Logic này củng cố phần lớn cách tiếp cận của cộng đồng quốc phòng Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Các quan chức Hoa Kỳ đã thừa nhận rằng PLA phải đối mặt với những thách thức nhưng lập luận rằng xu hướng hiện đại hóa tổng thể có thể khiến PLA có nguy cơ gây chiến với Đài Loan trong tương lai. Tương tự như vậy, báo cáo thường niên năm 2023 gửi Quốc hội về các diễn biến quân sự và an ninh của Trung Quốc có các phần so sánh lực lượng quân sự của Trung Quốc và Đài Loan. Giống như những báo cáo trước đó, báo cáo năm 2023 cũng phân tích các phương án hành động tiềm năng của PLA để khuất phục hòn đảo này, ngụ ý rằng việc tăng cường quân sự của Trung Quốc chủ yếu nhằm vào một cuộc chiến giữa Trung Quốc và Đài Loan. Các cuộc tập trận quân sự mô phỏng các trận chiến xung quanh eo biển Đài Loan và nhiều nghiên cứu và báo cáo khám phá cách một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ gần Đài Loan có thể diễn ra đã gia tăng kể từ những năm 2010.
Tuy nhiên, quan niệm cho rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang tiến hành tăng cường quân sự để chinh phục Đài Loan là có vấn đề. Có ba vấn đề với hướng phân tích này: (1) Tầm quan trọng của Đài Loan đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ còn lâu mới rõ ràng và có khả năng bị cường điệu hóa; (2) Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tỏ ra hứng thú với việc bắt đầu một cuộc chiến tranh; và (3) PLA hầu như không chuẩn bị gì cho một cuộc chiến tranh giành Đài Loan.
Vấn đề đầu tiên với hướng phân tích này là tầm quan trọng của Đài Loan đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ còn lâu mới rõ ràng và rất có khả năng bị cường điệu hóa nghiêm trọng trong các học giả phương Tây. Thực tế là ĐCSTQ đã phát triển mạnh mẽ mà không sở hữu Đài Loan trong hơn 70 năm làm mất uy tín của tuyên bố rằng tính hợp pháp của ĐCSTQ phụ thuộc vào sự thống nhất. Nhưng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra bằng chứng trực tiếp hơn nữa. Trong nhiều bài phát biểu nêu ra các mối đe dọa hàng đầu đối với sự cai trị của ĐCSTQ, các nhà lãnh đạo cấp cao hiếm khi đề cập đến Đài Loan. Thay vào đó, họ liên tục nhấn mạnh đến những mối nguy hiểm như tham nhũng, thất nghiệp, tội phạm và lật đổ. Mặc dù Tập Cận Bình đã nhấn mạnh đến việc thống nhất với Đài Loan, nhưng ông đã làm như vậy bằng cách sử dụng ngôn ngữ tương đối theo công thức trong các báo cáo và địa điểm phần lớn là nhất quán “tầm quan trọng của Đài Loan đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ” còn lâu mới rõ ràng và rất có khả năng bị cường điệu hóa nghiêm trọng trong các học giả phương Tây.
Với những người tiền nhiệm của ông, bất chấp những suy đoán rộng rãi của các nhà bình luận phương Tây, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn chưa đưa ra bất kỳ tối hậu thư hay thời hạn nào cho việc thống nhất. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất có thể hy vọng giành được quyền kiểm soát Đài Loan nhưng dường như không từ bỏ hy vọng vào các phương pháp phi chiến tranh để thực hiện điều đó. Sách trắng năm 2022 của Trung Quốc về Đài Loan tuyên bố “thống nhất” là “điều không thể thiếu đối với sự trẻ hóa quốc gia” nhưng mô tả “phát triển” là “yếu tố then chốt” để đạt được mục tiêu “thống nhất hòa bình”.
Thứ hai, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra ít quan tâm đến việc bắt đầu một cuộc chiến tranh. Điểm này rất quan trọng vì giới lãnh đạo trung ương đưa ra tín hiệu yêu cầu chuẩn bị chiến tranh.
Các nhà lãnh đạo chính trị tin rằng chiến tranh sắp xảy ra hoặc đáng mong muốn sẽ yêu cầu quân đội phải sẵn sàng chiến đấu. Những nhà lãnh đạo như vậy có xu hướng tạo ra cảm giác cấp bách về chiến tranh bằng cách cảnh báo về bản chất sắp xảy ra của nó, bày tỏ sự bất bình và liên tục bôi nhọ kẻ thù được dự đoán. Các quan chức chính phủ cấp dưới và phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát khuếch đại thông điệp trong các cuộc phỏng vấn, bài phát biểu và bài viết. Các nhà ngoại giao tỏa ra để củng cố sự ủng hộ của quốc tế và cô lập kẻ thù. Làm theo một sách lược được hầu như tất cả các quốc gia hiếu chiến thiết lập tốt, Mao và Đặng thúc đẩy đưa tin trên phương tiện truyền thông ủng hộ chiến tranh, đưa ra các bài phát biểu hiếu chiến và tiến hành hoạt động ngoại giao để đưa ra lập luận ủng hộ chiến tranh và bôi nhọ đối thủ tương ứng của họ. Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng đã bày tỏ sự bất bình của mình và bôi nhọ đối thủ dự kiến của mình trên các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát và các bài phát biểu của mình để vun đắp sự ủng hộ trong nước và quốc tế cho cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine vào năm 2022. Những nhà độc tài không phải là những nhà lãnh đạo duy nhất làm theo mô hình này. Ví dụ, trong quá trình dẫn đến cuộc xâm lược Iraq của Hoa Kỳ vào năm 2003, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush, cha ông và các quan chức chính quyền cấp cao đã nhiều lần đưa ra lập luận công khai về chiến tranh. Họ nhấn mạnh đến những hành động tàn bạo của Iraq và lên án nhà độc tài Saddam Hussein của Iraq là “tệ hơn cả Hitler”. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ cũng vun đắp sự ủng hộ quốc tế thông qua các cam kết song phương và các bài phát biểu công khai tại các địa điểm nổi bật, bao gồm báo cáo của Ngoại trưởng Colin Powell cáo buộc Iraq sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt tại một cuộc họp của Liên hợp quốc.
Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có bài phát biểu nào ca ngợi chiến tranh, ủng hộ chiến tranh hoặc mô tả chiến tranh là điều không thể tránh khỏi hoặc mong muốn. Ngoài ra, không có bằng chứng nào cho thấy đất nước đang huy động cho chiến tranh hoặc tự đặt mình vào thế chiến tranh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thậm chí còn không cho phép phương tiện truyền thông đại chúng đề cập đến khả năng xảy ra chiến tranh lớn như một phương tiện có thể để nâng cao nhận thức và ủng hộ cho một cuộc chiến như vậy. Vào thời Mao, ngành công nghiệp điện ảnh đã tạo ra nhiều bộ phim tuyên truyền không ngừng bôi nhọ kẻ thù của Trung Quốc và thúc giục đấu tranh và bạo lực của người dân chống lại những kẻ thù đó. Tuy nhiên, phản ánh sự thờ ơ của Bắc Kinh trong việc khuyến khích lối suy nghĩ này, phương tiện truyền thông Trung Quốc không tạo ra bất cứ thứ gì tương tự như “Red Storm Rising” (tiểu thuyết năm 1986 của Tom Clancy) hoặc các mô tả hư cấu khác về một cuộc chiến tranh lớn liên quan đến Trung Quốc chống lại Hoa Kỳ hoặc Đài Loan. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như không quan tâm đến việc xây dựng một khối cử tri cho chiến tranh, mặc dù hiện tại không có khối cử tri nào trong giới tinh hoa Trung Quốc hoặc công chúng ủng hộ chiến tranh để đạt được sự thống nhất.
Vấn đề thứ ba với dòng phân tích này là quân đội Trung Quốc dường như hầu như không lập kế hoạch hoặc chuẩn bị cho một cuộc chiến như vậy. Mặc dù suy đoán về một cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đang lan tràn trong giới quốc phòng Hoa Kỳ, nhưng các bài viết về quân sự của Trung Quốc không có phân tích chi tiết về cách một cuộc chiến như vậy có thể diễn ra. Không có nghiên cứu nào về cách quân đội Trung Quốc có thể đánh bại lực lượng Hoa Kỳ được công bố tại bất kỳ học viện nào trực thuộc quân đội Trung Quốc. Quân đội Trung Quốc thậm chí còn chưa công bố một nghiên cứu nào về cách họ có thể chiếm đóng và kiểm soát Đài Loan. Các tạp chí quân sự Trung Quốc đầy rẫy những bài trình bày lý thuyết về cách các đơn vị quân đội có thể tiến hành các chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, nhưng chúng được xây dựng một cách trừu tượng. Phản ánh sự nhạy cảm về chính trị, các nguồn này thường chỉ đưa ra những tham chiếu gián tiếp đến các đối thủ tiềm tàng, chẳng hạn như Đài Loan hoặc Hoa Kỳ. Nghiên cứu để hỗ trợ các nhiệm vụ quân sự cụ thể, ưu tiên cao, chẳng hạn như cách đánh bại lực lượng Hoa Kỳ, vốn sẽ là tiêu chuẩn trong các nhóm quốc phòng Hoa Kỳ, dường như không tồn tại.
Có khả năng là một số loại kế hoạch để chống lại quân đội Hoa Kỳ tồn tại ở dạng được phân loại. Rốt cuộc, Bộ Tham mưu Liên hợp của PLA chịu trách nhiệm về “lập kế hoạch chiến đấu”. Tuy nhiên, việc thiếu bất kỳ nghiên cứu hỗ trợ nào không được phân loại đặt ra câu hỏi về mức độ chi tiết và mạnh mẽ của bất kỳ kế hoạch nào của PLA để chiến đấu và đánh bại quân đội Hoa Kỳ. Việc không có bất kỳ tin đồn hay báo cáo rò rỉ nào trên phương tiện truyền thông Đài Loan hay Hoa Kỳ về một kế hoạch giật gân như vậy cũng đặt ra câu hỏi về mức độ nỗ lực thực sự mà PLA đang dành cho các hoạt động chuẩn bị như vậy. Tại sao PLA lại miễn cưỡng thực hiện công việc như vậy? Câu trả lời hợp lý nhất là chính trị. ĐCSTQ đã tuyên bố rằng chiến tranh với Hoa Kỳ sẽ không xảy ra, vì vậy PLA rõ ràng không thể nghiên cứu về một chủ đề mà ĐCSTQ đã tuyên bố là không thể.
Tóm lại, quá trình hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc đặt ra một nghịch lý. Một mặt, Trung Quốc đã đầu tư số tiền lớn để cải thiện khả năng chiến đấu của PLA. Mặt khác, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thừa nhận rằng đất nước phải đối mặt với một môi trường bên ngoài tương đối lành mạnh và nhiệm vụ hàng đầu của PLA vẫn là duy trì sự cai trị của ĐCSTQ. Mặc dù các nhà phân tích tuyên bố rằng quá trình hiện đại hóa có thể được thúc đẩy bởi quyết tâm chinh phục Đài Loan của ĐCSTQ, nhưng bằng chứng cho phỏng đoán này vẫn cực kỳ yếu. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tỏ ra cấp bách trong việc sử dụng vũ lực quân sự để giải quyết tình trạng của Đài Loan. Tương tự, PLA hầu như không nỗ lực lập kế hoạch cho một cuộc chiến như vậy.
Giải pháp cho nghịch lý này là thừa nhận rằng những thành quả hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc không nhằm mục đích chinh phục Đài Loan thông qua tấn công quân sự. Thay vào đó, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc được thiết kế để giúp PLA thực hiện hiệu quả hơn sứ mệnh lâu dài của mình là duy trì sự cai trị của ĐCSTQ. Những cải thiện về hiệu quả chiến đấu vẫn là ưu tiên thứ yếu và mặc dù những thành quả đạt được là có thật, nhưng chúng cũng chỉ ở mức hạn chế.
ỦNG HỘ ĐCSTQ: ĐỘNG LỰC THỰC SỰ CỦA PLA
Nhiệm vụ chính là duy trì sự cai trị của ĐCSTQ vẫn nhất quán, nhưng cách thức mà quân đội được kỳ vọng sẽ hoàn thành sứ mệnh đó đã thay đổi. Hiện đại hóa quân đội đã trở nên thiết yếu đối với chức năng duy trì sự cai trị của ĐCSTQ của PLA vì các phương pháp duy trì quyền lực của chính ĐCSTQ đã trải qua quá trình hiện đại hóa. Ví dụ, vào những năm 1950 và 1960, các quan chức Trung Quốc dựa vào sự kiểm soát toàn trị, các chiến dịch chính trị và bạo lực quần chúng để duy trì quyền lực. Trong thời gian đó, PLA đã tận tụy thực hiện sứ mệnh duy trì sự cai trị của ĐCSTQ bằng cách tham gia vào các chiến dịch chính trị, đàn áp tình trạng bất ổn và can thiệp vào chính trị để loại bỏ các mối đe dọa đối với nhà lãnh đạo tối cao.
Đặng Tiểu Bình đã đại tu chiến lược quản trị của ĐCSTQ và do đó loại bỏ những nguy cơ cũ của các cuộc đấu tranh phe phái thấm nhuần tư tưởng. Tuy nhiên, sự ổn định được cải thiện phải trả giá bằng những thách thức mới đối với sự cai trị của ĐCSTQ. Những thách thức mới bắt nguồn từ thành công của đảng trong việc giám sát nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Sự hài lòng của người dân đối với chiến lược tăng trưởng thực dụng do Đặng khởi xướng đã làm tăng thêm kỳ vọng rằng ĐCSTQ có thể tạo ra việc làm, mức sống cao hơn, phúc lợi xã hội, sự đối xử công bằng của tòa án, môi trường trong sạch hơn và ít tham nhũng hơn. Nhưng các nguồn lực của nhà nước đã chứng minh là không đủ để đáp ứng những nhu cầu này. Như Tập Cận Bình đã giải thích, vấn đề cốt lõi đối với sự cai trị của ĐCSTQ là “mâu thuẫn” giữa “nhu cầu ngày càng tăng của người dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn” và “sự phát triển không cân bằng và không đầy đủ” của đất nước. Vì kỳ vọng của người dân thường vượt quá những gì đảng có thể cung cấp, nên tình trạng bất ổn đã gia tăng. Kể từ năm 2011, ngân sách cho an ninh nội bộ đã vượt quá ngân sách quốc phòng và chính quyền đã tăng cường đàn áp để duy trì trật tự.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận ra thách thức mới này đối với sự cai trị của ĐCSTQ kể từ những năm 2000, khi họ định nghĩa kỳ vọng hoặc yêu cầu của công chúng theo cả nghĩa vật chất và tinh thần. Nhu cầu vật chất của người dân bao gồm các nguồn lực có thể cải thiện mức sống, trong khi nhu cầu tinh thần bao gồm phẩm giá quốc gia và duy trì hệ thống chính trị của Trung Quốc. Những nhu cầu này hình thành nên bản chất của “lợi ích cốt lõi” của quốc gia, mà chính quyền cho là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước và ĐCSTQ.
Kể từ năm 2004, vai trò của PLA trong chiến lược quốc gia đã tập trung theo đó vào việc hỗ trợ ĐCSTQ cung cấp những hàng hóa vật chất và tinh thần này. Để đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, PLA được giao nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế thông qua việc bảo vệ người lao động và tài sản ở nước ngoài, thúc đẩy ổn định quốc tế và bảo vệ các tuyến đường vận chuyển chính. Các nhiệm vụ có liên quan bao gồm các hoạt động sơ tán phi chiến đấu, các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các cuộc tuần tra chống cướp biển. Trong suốt những năm 2000, quân đội Trung Quốc đã tăng cường tham gia vào các loại nhiệm vụ phi chiến tranh này. Thật vậy, tất cả các cuộc can thiệp quân sự của Trung Quốc ở nước ngoài kể từ cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam đều bao gồm các hoạt động phi chiến tranh.
Để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân về phẩm giá quốc gia, PLA giúp khơi dậy lòng nhiệt thành yêu nước, lòng tự hào dân tộc và bảo vệ phi chiến tranh cho lợi ích của đất nước thông qua răn đe, diễu hành, tập trận và diễn tập, thường được đưa tin rầm rộ trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Trưng bày những thành tựu hiện đại hóa về sức mạnh công nghệ của Trung Quốc, chẳng hạn như triển khai tàu sân bay, máy bay tàng hình và các kỳ quan công nghệ khác, cũng giúp khơi dậy lòng nhiệt thành yêu nước. Quân đội giúp củng cố lòng tin của người dân vào chính quyền bằng cách cứu sống họ. Mặc dù bề ngoài tách biệt khỏi các nhiệm vụ an ninh trong nước, PLA vẫn thường xuyên can thiệp để giúp đỡ khắc phục thiên tai và hỗ trợ nhân đạo. Các lực lượng quân đội thường xuyên ứng phó với động đất, lũ lụt và đại dịch ở Trung Quốc.
Các cuộc biểu tình phô trương sức mạnh mà thực tế không liên quan đến chiến đấu là một cách quan trọng khác để quân đội củng cố sự ủng hộ của người dân đối với ĐCSTQ. Lập trường không khoan nhượng và các hành động cưỡng ép của Trung Quốc đối với các tranh chấp, chẳng hạn như chuỗi đảo đầu tiên, Đài Loan và biên giới Ấn Độ, có thể thúc đẩy sự tin tưởng vào giới lãnh đạo với tư cách là người bảo vệ lợi ích quốc gia theo cách không gây tổn hại nhiều cho Trung Quốc (và công chúng Trung Quốc). Ngoại giao quân sự cũng góp phần vào uy tín của đảng thông qua các hoạt động được công khai rộng rãi, chẳng hạn như các chuyến thăm cảng, hỗ trợ nhân đạo, các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao và các sự kiện huấn luyện đa phương. Tất cả các hoạt động này đều giúp củng cố quyền lực của ĐCSTQ, nhưng không hoạt động nào trong số đó đòi hỏi PLA phải trở thành lực lượng chiến đấu hiệu quả.
Việc diễn giải quá trình hiện đại hóa PLA thông qua lăng kính của sứ mệnh lâu đời là duy trì sự cai trị của ĐCSTQ mang lại một số lợi thế phân tích so với quan điểm thông thường coi hiện đại hóa quân đội là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến chống lại Đài Loan. Đầu tiên, về mặt logic, nó đơn giản hơn: Nó giả định sự liên tục mạnh mẽ giữa PLA dưới thời Tập Cận Bình và PLA của những người tiền nhiệm của Tập Cận Bình. Kể từ năm 1949, PLA luôn ưu tiên duy trì sự cai trị của ĐCSTQ, một ưu tiên không thay đổi mặc dù quân đội đã được hiện đại hóa. Thứ hai, nó tránh được các vấn đề liên quan đến tuyên bố rằng chiến tranh với Đài Loan thúc đẩy quá trình hiện đại hóa của PLA. Lập luận hiện đại hóa quân sự tập trung vào Đài Loan gặp khó khăn trong việc giải thích sự thiếu cấp bách của ĐCSTQ đối với vấn đề thống nhất Đài Loan, sự thờ ơ của Bắc Kinh đối với chiến tranh và sự thiếu chuẩn bị cho chiến tranh của PLA. Tuy nhiên, việc hiểu hiện đại hóa PLA như một phương tiện để duy trì sự cai trị của ĐCSTQ có thể giải thích dễ dàng những sự thật này. ĐCSTQ coi trọng việc thống nhất Đài Loan nhưng quan tâm nhiều hơn đến các mối đe dọa xã hội, chính trị và kinh tế cấp bách, chủ yếu là trong nước đối với sự cai trị của ĐCSTQ. ĐCSTQ không quan tâm đến chiến tranh vì họ coi một cuộc chiến tranh lớn là không cần thiết và có khả năng gây ra thảm họa. Hơn nữa, PLA phản ánh trung thực các phán đoán của ĐCSTQ về chiến tranh trong sự mơ hồ của họ về các hoạt động chuẩn bị chiến đấu.
---
GHI CHÚ:
- Bài viết có 1 Bảng biểu và 140 chú thích, nhưng xét thấy không cần thiết nên nhà cháu bỏ bảng này và 137 chú thích trong bài, chỉ đăng 3 chú thích quan trọng ở trong phần II.
- Link tải bản gốc tiếng Anh ở đây: https://www.rand.org/pubs/