Triển vọng kinh tế toàn cầu và Việt Nam năm 2024

22 Trần Quốc Toản, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp.HCM
Tiêu điểm
BĐS: THƯỢNG HẢI – BẮC KINH: BÀI HỌC CHO NHỮNG THỊ TRƯỜNG ĐANG LỚN LÊN  CN & MT: Trung Quốc Mở Bệnh Viện AI Đầu Tiên Thế Giới — Bác Sĩ Robot Điều Trị 3.000 Bệnh Nhân Mỗi Ngày VH & TG: Tập Cận Bình có thể đã tính toán sai về đất hiếm CN & MT: "Tiên tri" buồn: Đây là thứ thống trị tiêu thụ năng lượng toàn cầu sau năm 2050 CN & MT: Chiếm trọn 83% thị phần tại Việt Nam, ‘vua xe máy’ Honda lên kế hoạch và nói thẳng tham vọng ở vị thế mới VH & TG: Nga, Trung Quốc và sứ mệnh tự cường của châu Âu BĐS: ĐẦU TƯ THEO NỘI LỰC ĐÔ THỊ: TIỆN ÍCH – VIỆC LÀM – DÂN CƯ, TAM GIÁC VÀNG VH & TG: THÁNG 10.2025, TRUMP TẬP HỘI NGỘ VÀ NÉT PHÁC CÂN BẰNG LƯỠNG CỰC G2 THẾ KỶ 21 .. BĐS: ĐỈNH CỦA BẤT ĐỘNG SẢN 2023-2025  Và BÀI HỌC NGƯỜI GIÀU MUA DÒNG TIỀN .. Chứng khoán: PHẦN 3: THỊ TRƯỜNG THĂNG HOA XUẤT TƯỚNG NHỮNG 'ANH HÙNG' SK & Đời Sống: F&B Việt Nam: Thanh Lọc Và Chuyên Nghiệp Hóa Chứng khoán: VN-Index mất gần 30 điểm BĐS: 7 BÀI HỌC XƯƠNG MÁU SAU HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG BĐS GIÚP NHÀ ĐẦU TƯ THOÁT BẪY SỐT ĐẤT Thư Giản: CHẾT KHÔNG PHẢI VÌ LÀM DỞ, MÀ VÌ BỊ BÓP CỔ Thư Giản: “KHÔNG PLAN” CHÍNH LÀ NGHÈO — VÀ NGHÈO THÌ CĂNG THẲNG Tin tức: TP.HCM: Gần 20.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường mỗi tháng BĐS: "Thị trường bất động sản gần như chỉ quay vòng giữa giới đầu tư với nhau" VH & TG: Nhìn lại nợ công của Mỹ trong 200 năm qua BĐS: GS Đặng Hùng Võ: Cơ chế vốn hóa của thị trường đang bị ‘kẹt’, tín dụng BĐS phình to là dấu hiệu cảnh báo BĐS: Hai mặt thị trường địa ốc phía Nam Tin tức: Doanh nghiệp logistics bất ngờ đổ về trung tâm TP.HCM BĐS: Nhà đầu tư phía Bắc 'đổ xô' vào Nam mua bất động sản Chứng khoán: Mía đường Cao Bằng (CBS) chốt quyền trả cổ tức bằng tiền tỷ lệ 30% Tin tức: Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn: Đầu tư 1 tỷ đô la cho metro, có thể thu hàng chục tỷ đô la để đô thị "tự nuôi mình" VH & TG: Nhìn lại buổi đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng CN & MT: Xe điện hết được ưu tiên ở Trung Quốc VH & TG: Bán lẻ Trung Quốc đào thải, ảnh hưởng Việt Nam CN & MT: Phân tích quan điểm khí hậu Bill Gates. VH & TG: Khoảng cách văn minh phương Tây - Việt Nam CN & MT: Trump, Gates và Trục Up-winder/Down-winder CN & MT: Phân Tích Ý Tưởng Giả Định: "Liên Minh Đặc Biệt Việt Nam - Singapore Chống Biến Đổi Khí Hậu" CN & MT: Địa chính trị mới của quá trình chuyển đổi xanh BĐS: “Đánh thức” 6 triệu tỷ đồng chôn chân trong dự án Tin tức: Các định chế phương Tây đã sai lầm về Việt Nam CN & MT: Phản Ứng Của Mỹ Trước "Đòn Đất Hiếm" Của Trung Quốc CN & MT: 2060-2100 CN & MT: Ngân hàng Big4 của Australia chọn Việt Nam đặt 'bộ não công nghệ' BĐS: Bất động sản : máy hút và giữ tiền 40 năm qua ...vì sao ? BĐS: Không đánh đổi giá nhà lấy tăng trưởng viển vông! CN & MT: Thời đại và tốc độ CN & MT: 2056 CN & MT: Con đường thứ ba cho AI vượt ra ngoài nhị phân Mỹ-Trung CN & MT: ĐỘNG CƠ XĂNG CẢI TIẾN VẪN CÒN NỔ ĐẾN CUỐI NĂM 2100...ĐỒNG HÀNH CÙNG XE ĐIỆN ,XE HYDRO ...XE LƯỢNG TỬ .... CN & MT: Hàng loạt 'ông lớn' ô tô giảm đầu tư xe điện, tuyên bố loại xe này mới là tương lai của ngành CN & MT: BMW và Toyota đã đúng CN & MT: Ngày mai, ai sẽ xây cầu? CN & MT: Hãng xe Trung Quốc xây nhà máy tại Thái Bình ra mắt xe điện cỡ nhỏ phiên bản mới: Giá khởi điểm dưới 300 triệu đồng, 1 lần sạc đi 410 km BĐS: "Sóng" hạ tầng, mở đường cho chu kỳ tăng trưởng mới của thị trường bất động sản SK & Đời Sống: THIÊN TAI, NHÂN HOẠ VÀ NGUY CƠ ĐỊCH HOẠ CN & MT: 2059 BĐS: Thắt Tín Dụng Bất Động Sản: Lối Thoát Cho Nền Kinh Tế Việt Nam VH & TG: Nhật Bản giữa nghịch lý dân số già và làn sóng bài ngoại Tiền Tệ : XỬ LÝ TỐI ƯU TRƯỚC BÃO KHỦNG KHOẢNG KINH TẾ , 2026- 2028  Tiền Tệ : Fed cắt lãi suất: Lựa chọn rủi ro Tiền Tệ : KHI NÚI NỢ TOÀN CẦU CHẠM ĐỈNH! LỊCH SỬ LUÔN TRẢ GIÁ BẰNG NHỮNG CÚ SẬP KHÔNG BÁO TRƯỚC BĐS: Thực trạng phân khúc nhà liền thổ tại TPHCM Thư Giản: 14 định luật ngầm BĐS: 5 lưu ý khi đầu tư LƯỚT SÓNG bất động sản BĐS: Hơn 32.000 căn nhà ở xã hội gần TP.HCM trong kế hoạch xây dựng năm 2025 của Long An : Nếu không sửa luật, dự án bất động sản sẽ tắc trong 10 năm tới Chứng khoán: CHỨNG KHOÁN QUÝ 4.2025 Kì 2 VH & TG: DOANH NHÂN VIỆT QUA CÁI NHÌN CỦA NGUYỄN TRẦN BẠT VH & TG: 23 quy luật vàng Same as ever ( Vô thường bất biến ) CN & MT: LƯỢNG MƯA TPHCM & ĐỒNG BĂNG SÔNG CỬU LONG TĂNG 15-20% 2030-2050 Tin tức: TP.HCM hướng tới GRDP bình quân đầu người 14.000-15.000 USD BĐS:  “GÃ KHỔNG LỒ” NHẬT BẢN NOMURA ÂM THẦM RÓT TỶ USD VÀO VINHOMES & PHÚ MỸ HƯNG VH & TG: Trung Quốc soán ngôi Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới khi nào? BĐS: Giờ G của bất động sản: Siêu dự án vẽ lại bản đồ đầu tư VH & TG: Trung Quốc sẽ không ngừng “đùa với lửa” ở Biển Đông VH & TG: Bóng đen BĐS Trung Quốc kéo dài sang năm thứ năm, tồn kho 762 triệu m2, doanh số bán nhà mới tiếp tục giảm 8%, quy mô thị trường giảm một nửa VH & TG: Vì sao ông Trump muốn "rèn cán chỉnh quân"? VH & TG: Sự cần thiết của việc Mỹ và các nền kinh tế thị trường khác phải đối phó quyết liệt với mô hình kinh tế độc đoán của Trung Quốc CN & MT: VỀ ĐẠI DỰ ÁN PHÒNG CHỐNG LỦ LỤT HÀ NỘI, TÂY BẮC VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 2030-2050 Tin tức: Chuyên gia hiến kế làm TOD nhanh CN & MT: Siêu drone Vectis tích hợp AI, vũ khí mới thống trị bầu trời, thay đổi cuộc chơi không quân CN & MT: TRUMP NÓI " BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÒ LỪA ĐẢO..."  SỰ THẬT LÀ GÌ ?  SK & Đời Sống: Sôi động dịch vụ đêm nhờ gen Z SK & Đời Sống: 25–30% lực lượng lao động ở Việt Nam thuộc thế hệ Gen Z Tiền Tệ : Kinh tế quý 3 2025 Tiền Tệ : Ba lực đẩy âm thầm thay đổi kinh tế thế giới SK & Đời Sống: Ngũ hành luận về kinh tế và bất động sản Chứng khoán: Dự báo chứng khoán quý 4.2025 Chứng khoán: Nhìn lại dự báo VN-Index 2025: VCBS nổi bật với kịch bản sát thực tế Tiền Tệ : Câu lạc bộ nền kinh tế nghìn tỷ USD đang mở rộng — và châu Âu vừa có thành viên mới. Tiền Tệ : Kinh tế vn 2026 : vần đề cấp Bách SK & Đời Sống: 4 triệu người Sài Gòn: Làm cả đời cũng không mua nổi một căn nhà! Tiền Tệ : Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam tính đến ngày 30/8/2025 Tiền Tệ : Chính sách tiền tệ vẫn duy trì nới lỏng nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh tế các năm 2024-2025, khi lãi suất chính sách thực về gần bằng không. Tiền Tệ : Soi nợ có nguy cơ mất vốn của các ngân hàng Tiền Tệ : Thêm 'biện pháp mạnh' ngăn tín dụng đổ vào đầu cơ bất động sản SK & Đời Sống: Có nhà vẫn chuyển sống trên nhà thuyền, không lo ngập VH & TG: Mỹ ép Trung Quốc từ bỏ mô hình dựa vào xuất khẩu: Đòn quyết định tại vòng đàm phán ở Stockholm? Tiền Tệ : Khi lạm phát tại Việt Nam vượt ngưỡng 6-7%, kịch bản kinh tế mô tả trên đưa ra một cái nhìn sắc nét về sự phân hóa tài sản Tin tức: Cú hích từ Washington: tái cơ cấu mô hình tăng trưởng Tiền Tệ : 29 ngân hàng ôm gần 300.000 tỷ đồng nợ xấu, lộ rõ bức tranh trái chiều Chứng khoán: 2022-2025 thời điểm đu đáy 50- 100 điểm Chứng khoán: VN-Index tăng 767 điểm từ đáy, không ít cổ đông của 13 doanh nghiệp VN30 chưa thể ‘về bờ’ SK & Đời Sống: Chống nóng bằng hạ tầng Tiền Tệ : Sự kiện SCB – Trương Mỹ Lan: Cú sốc chấn động hệ thống Tiền Tệ : Kịch bản 2026: Khi lạm phát vượt 7% những ai sẽ bị nghiền nát, và ai trụ vững? SK & Đời Sống: BÍ MẬT TRƯỜNG THỌ CỦA NGƯỜI NHẬT: KHÔNG PHẢI THUỐC TIÊN – MÀ LÀ THÓi QUEN  NGÀN NĂM  VÀ LỐI SỐNG BĐS: Đất ở ổn định 20 năm, không có khiếu kiện, tranh chấp có được cấp sổ đỏ hay không Tin tức: Ngân hàng KEXIM làm việc với tỉnh Long An Tin tức: “Thế giới không còn phẳng” BĐS: Dòng tiền đổ về vùng ven Tin tức: TOD giúp định hình lại không gian đô thị TP.HCM Thư Giản: Người đàn ông chi hơn 273 triệu đồng mua hòn đảo 99.000m2 để nghỉ hưu, 42 năm sau giá tăng lên 1.200 tỷ vẫn từ chối bán: "Thứ tôi muốn không phải là tiền" Tin tức: TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG: CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ VIỆT NAM BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM Tin tức: Vinhomes, Novaland, Khang Điền, Nam Long, Phát Đạt… đang làm ăn ra sao? Tin tức: Tình trạng đình lạm(*) của thời đại hiện nay  Thư Giản: BỨC ẢNH CUỐI CÙNG GỬI VỀ TỪ SAO KIM 1982  VH & TG: Chuyện gì đang xảy ra ở Mỹ: Nghiên cứu mới cho thấy 25% người Mỹ giàu nhất chỉ sống thọ bằng 25% người nghèo nhất Tây Âu? Thư Giản: NGƯỜI HÀNG XÓM KHÔNG BÌNH THƯỜNG Thư Giản: Millennials - thế hệ kẹt giữa gen X và gen Z: Vì sao chúng ta khác biệt? Tin tức: Ông Trump bổ sung thuế với TQ, chứng khoán Thượng Hải, Thâm Quyến và Hồng Kông lao dốc VH & TG: Liệu Trump có gây ra “sự sụp đổ” thứ tám? Thư Giản: NĂM CHỮ CỦA NGƯỜI XƯA Thư Giản: Bức thư của nhà khoa học Newton năm 1704 tiên đoán về ngày tận thế VH & TG: Buồn của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới: Dân số 1,4 tỷ người nhưng thiếu lao động trầm trọng ở cơ sở y tế nông thôn, bác sĩ lương tháng 3,4 triệu đồng, tự bỏ tiền túi mua thiết bị Tin tức: Ngẫm bài học tăng trưởng từ Trung Quốc và Ấn Độ Thư Giản: Ước vọng thay đổi Tin tức: Kinh tế Trung Quốc giai đoạn mới và hàm ý cho Việt Nam Tin tức: Ukraine 'khóa van', kỷ nguyên khí đốt của Nga tại châu Âu kết thúc VH & TG: NGỘ 12 LUẬT NHÂN QUẢ BẤT BIẾN TRONG CUỘC ĐỜI VH & TG: Tỷ phú Elon Musk nói thẳng 1 ĐIỀU càng cố tỏ ra hoàn hảo thì con người càng kém giá trị: Tránh được sớm sẽ giàu sớm Tin tức: Thế chiến thứ III đã bắt đầu? VH & TG: Đại lão Hòa thượng Hộ Tông Vansarakkhita (1893-1981) Tin tức: CÁI GIÁ CỦA CHIẾN TRANH 2024 2025 Tin tức: Thế giới đối mặt cùng lúc 5 căn nguyên của thảm họa và nguy cơ Thế chiến III CN & MT: "Báo động đỏ" về khí hậu VH & TG: Nghiên cứu 75 năm của ĐH Harvard: Đây là KIỂU NGƯỜI hạnh phúc nhất, không liên quan gì đến giàu sang, danh vọng! Tin tức: Phố nhậu xập xình nhất TPHCM ế vêu, chủ quán ngồi chờ… dẹp tiệm Tin tức:  2050 Nhân loại đang ở ngã ba đường Tin tức: 20 rủi ro toàn cầu lớn nhất năm 2024, suy thoái kinh tế và thời tiết cực đoan nằm top đầu VH & TG: Câu chuyện Chúa Giê Su ‘sang Phương Đông tu tập’ được kể lại ra sao? VH & TG: Henry Kissinger: Làm thế nào để tránh xảy ra Thế chiến 3? (P1) Tin tức: Dấu ấn ODA Nhật Bản tại Đồng bằng sông Cửu Long Tin tức: 9 vấn đề định hình nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2024: Từ lạm phát, tăng trưởng GDP đến TikTok, ChatGPT CN & MT: Năng lượng và biến đổi khí hậu Tin tức: Trật tự thế giới mới sẽ như thế nào 2025 2050 ? Tin tức: Trung Quốc chấm dứt 30 năm phát triển mạnh, hết thời làm mưa làm gió trên thế giới? CN & MT: Châu Âu: Thế thượng phong của ô tô điện - bao lâu nữa? Tin tức: Hệ lụy gì từ cuộc chiến mới ở Trung Đông? Tin tức: Khủng hoảng tại WTO và cảnh báo về sự phân mảnh của kinh tế toàn cầu Tin tức: Dự báo rủi ro lạm phát dai dẳng ở Mỹ Tin tức: Trump làm tổng thống Mỹ Thế giới bắt đầu thời kỳ cấu trúc lại trật tư thế giới The World Begins to Reorder Itself Tin tức: IMF: Triển vọng kinh tế thế giới mấy năm tới chỉ ở “hạng xoàng”
Bài viết
Triển vọng kinh tế toàn cầu và Việt Nam năm 2024

    Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được dự báo tăng trưởng chậm lại bởi nhiều yếu tố rủi ro bất định, nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại những khó khăn riêng cản trợ sự phát triển.

    Kinh tế 2024 dự báo còn khó, nhưng Việt Nam có một lợi thế mà không phải  quốc gia nào cũng có

    Còn đó những rủi ro bất định toàn cầu

    Nền kinh tế toàn cầu bước vào năm 2024 với nhiều khó khăn tồn tại và thử thách nghiêm trọng. Mức tăng trưởng sẽ chậm lại, thấp hơn so với các thập kỷ trước vì nhiều lý do.

    Bốn năm sau khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, kinh tế thế giới vẫn chưa hồi phục trở lại quỹ đạo tăng trưởng trước đại dịch. GDP toàn cầu năm 2023 sẽ thấp hơn khoảng 3,4% (tương đương 3.700 tỉ đô la Mỹ) so với GDP dự đoán trước khi có dịch. Sự mất mát này được phân bố không đồng đều. Mỹ là nước duy nhất đã hồi phục trở lại quỹ đạo tăng trưởng trước đại dịch. Châu Âu vẫn còn tăng trưởng dưới 2,2% và Trung Quốc 4,2% so với trước Covid-19. 

    Đáng chú ý là 73 nước nghèo có lợi tức thấp (low income countries - theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)) bị mất đến 6,5% GDP vì đại dịch. Sự mất mát này sẽ không hồi phục lại được. Nói cách khác, Covid-19 đã khiến các nước nghèo tăng trưởng chậm lại, và bị tụt hậu rất nhiều trong nỗ lực phát triển. Thêm khoảng Gần 100 triệu người đã bị rơi vào cảnh nghèo đói cùng cực.

    Cuộc tranh chấp chiến lược và địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc đã chia rẽ nền kinh tế toàn cầu thành hai khối - nghiêng về Mỹ hay nghiêng về Trung Quốc. Đặc biệt, chuỗi cung ứng toàn cầu của nhiều mặt hàng chiến lược và quan trọng đã có sự phân liệt. Nghiên cứu của IMF cho thấy trong mấy năm vừa qua, việc xuất nhập khẩu hàng hóa và sản phẩm cơ bản, giao lưu tài chính như đầu tư trực tiếp, đầu tư danh mục và cho vay ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn giữa các nước trong cùng khối, so với mức tăng trưởng chung cho toàn thế giới.

    Các giao lưu kinh tế, tài chính bị chia cắt đã làm giảm hiệu năng của nền kinh tế, tăng phí tổn kinh doanh. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế chậm lại và áp lực lên lạm phát. IMF đã ước tính nền kinh tế toàn cầu sẽ bị giảm 7% trong thời gian sắp tới. 

    Nếu tranh chấp chiến lược Mỹ - Trung Quốc sâu sắc thêm, tạo thành các xung đột khu vực, thì ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế sẽ nặng thêm, giống như hậu quả của cuộc xung đột quân sự ở Ukraine, đã làm tăng giá nhiên liệu, thực phẩm trên thế giới và làm chậm tăng trưởng. Cuộc xung đột quân sự Israel - Hamas (ở Trung Đông) nếu lan rộng ra cũng có ảnh hưởng tiêu cực như thế.

    Ngoài ra, các sự kiện thiên tai, thời tiết khắc nghiệt xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế như gây tổn thất tài sản, mùa màng; tăng phí bảo hiểm và các chi phí kinh doanh khác.

    Những yếu tố kể trên đã góp phần làm mức tăng trưởng kinh tế thế giới giảm nhiều trong thời gian qua, từ trung bình 5%/năm giai đoạn 1950-1960 xuống chỉ còn 2,5%/năm giai đoạn 2020-2024. Bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm sẽ tác động đến khả năng tăng trưởng của các nước.

    Điều đáng chú ý là thương mại thế giới cũng đã tăng trưởng chậm lại. Từ những năm 1980 cho đến cuộc đại khủng hoảng tài chính năm 2008, thương mại thế giới tăng khoảng 6-7%/năm - gấp đôi mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Đây đã là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sau đó, kim ngạch thương mại tăng chậm hẳn lại, chỉ còn tăng 0,8% trong năm 2023 trước khi hồi phục đến khoảng 3% vào năm 2024. Thương mại thế giới chậm tăng trưởng sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các nền kinh tế mở như Việt Nam (tỷ lệ xuất nhập khẩu/GDP rất cao, gần 200%).

    Triển vọng kinh tế từng khu vực

    Trong giai đoạn 2019-2023, kinh tế nhiều nước đã bị dao động rất nhiều vì tác động của đại dịch. Tuy nhiên, mức tăng trưởng trung bình hàng năm ở Mỹ là 1,9% trong thời gian này, xấp xỉ với mức tăng trưởng tiềm năng (potential growth rate). Mỹ là nước duy nhất đã hồi phục trở lại quỹ đạo tăng trưởng trước Covid-19. Lý do chính là trong năm 2020-2021, Chính phủ Mỹ đã thực hiện chương trình kích cầu khổng lồ lớn nhất thế giới trị giá trên 5.000 tỉ đô la Mỹ. Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) cũng tung ra lượng thanh khoản lớn tương tự để hỗ trợ nền kinh tế.

    Sang năm 2024, hai nguồn kích thích này sẽ bị đảo ngược. Bội chi ngân sách giảm và việc Fed đã tăng lãi suất trong gần hai năm qua - mà những ảnh hưởng chậm của nó sẽ còn tiếp tục trong năm 2024. Ngoài ra, các hộ gia đình ở Mỹ cũng đã tiêu hết số tiền trợ cấp do dịch bệnh (trên 2.000 tỉ đô la Mỹ) và sẽ phải bình thường hóa mức chi tiêu của mình. Vì vậy, mức tăng trưởng năm 2024 dự báo sẽ giảm xuống còn 1,5%.

    Trong khi đó, khu vực đồng euro ở châu Âu vẫn tiếp tục trì trệ với GDP chỉ tăng 0,7% trong năm 2023 và dự báo 1% trong năm 2024. Đặc biệt là Đức sẽ rơi vào cuộc suy thoái kép - vào đầu và cuối năm nay; và sẽ giảm 0,5% trong năm 2024. Lý do chính là giá năng lượng và thực phẩm tăng cao do xung đột ở Ukraine; lạm phát tăng lên trên 10% buộc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) phải tăng lãi suất lên cao nhất trong nhiều thập niên qua và chính phủ phải giảm bội chi ngân sách. Việc thương mại thế giới không tăng trưởng cũng có ảnh hưởng xấu đối với châu Âu - vốn dựa vào ngoại thương rất nhiều.

    Tăng trưởng trung bình hàng năm của Trung Quốc đạt 4,5% trong năm năm 2019-2023, thấp hơn mức 7,5% trong thập niên trước Covid-19 nhưng bằng mức tăng trưởng tiềm năng trong giai đoạn này. Suất tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc đã giảm vì tình trạng già hóa dân số và tỷ lệ sinh đẻ giảm nhiều, làm số người trong độ tuổi lao động giảm 0,5% mỗi năm, và sẽ có thểlên tới 0,8% trong những năm tới. Trong khi đó, mức tăng trưởng năng suất lao động cũng giảm xuống dưới 5%/năm.

    Nói chung, suất mức tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm, dự báo còn 3-4% trong giai đoạn 2026-2030 và 2-3% trong những năm 2031-2035. Dù tăng trưởng chậm lại, GDP của Trung Quốc sẽ bắt kịp Mỹ vào năm 2035 khi cả hai lên mức 30.000 tỉ đô la Mỹ—dù chậm hơn dự kiến của nước này. Thử thách lớn nhất trước mắt là tình trạng nợ quá cao. Nợ doanh nghiệp lên tới 167% GDP thuộc loại rất cao trên thế giới và nợ công (gồm cả chính quyền trung ương, địa phương và các công ty vay nợ của địa phương) bằng 95% GDP, giới hạn khả năng kích cầu của Chính phủ Trung Quốc.

    Nhật Bản bất ngờ tăng trưởng 2% trong năm 2023 nhờ du lịch và xuất khẩu tăng mạnh bởi đồng yen mất giá khoảng 11,5% so với đô la Mỹ từ đầu năm đến nay. Tuy nhiên, sang năm 2024, tăng trưởng kinh tế ở Nhật sẽ trở về mức 1% của 30 năm bị “mất mát” (1990-2010), nhất là khi Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) sẽ chấm dứt chính sách lãi suất âm vì lạm phát đã vượt quá 2%.

    Điểm son trong tình hình kinh tế hiện nay là Ấn Độ. Nước này đã và sẽ tăng trưởng khoảng 6,53%/ năm nhờ các cải cách kinh tế trong thập niên trước. Tuy nhiên tác động của Ấn Độ đối với kinh tế toàn cầu giới hạn vì tỷ trọng xuất và nhập khẩu của Ấn Độ trong thương mại thế giới rất thấp, chỉ khoảng 2% so (trong khi Trung Quốc là 12,4%).

    Nói chung châu Á giữ mức tăng trưởng khoảng 5% trong thời gian sắp tới, trở thành đầu tàu đóng góp 70% trong sự tăng trưởng toàn thế giới.

    Các nước thị trường mới nổi (emerging markets) cũng sẽ tăng trưởng chậm lại - khoảng 4%/năm, bằng một nửa mức tăng trưởng trong hai thập niên 1990 và 2000. Các nước này đã chịu ba cú sốc liên tiếp gồm Covid-19, xung đột quân sự ở Ukraine, việc tăng lãi suất nhanh và cao của Fed và ECB…, vì vậy, đến nay vẫn chưa thể hồi phục.

    Các nước lợi tức thấp (low income countries) mắc nợ quá cao (3.500 tỉ đô la Mỹ). Nhiều nước đang bị khủng hoảng nợ. Điều này khiến họ càng bị trì trệ trong nền kinh tế. Ở nhiều nước, tiền trả lãi trên dư nợ đã vượt quá 10% thu ngân sách, khiến họ phải cắt giảm các chi phí cần thiết cho an sinh xã hội, giáo dục, cơ sở hạ tầng, chưa kể đến việc đối phó với biến đổi khí hậu. Châu Phi còn phải đối phó với tình trạng bùng nổ dân số khi mỗi tháng có đến một triệu người mới tham gia vào lực lượng lao động nhưng chỉ có 25% trong số đó sẽ tìm được việc làm, theo Ngân hàng Phát triển châu Phi. Người thất nghiệp bất mãn và trở thành mối đe dọa cho sự ổn định xã hội và chính trị ở các nước này và tăng áp lực di dân đối với châu Âu.

    Khó khăn của Việt Nam

    2023 là một năm hết sức khó khăn cho Việt Nam, nhất là trong sáu tháng đầu năm, khi sức cầu trong và ngoài nước đều giảm. Tuy nhiên, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu hồi phục trong quí 3-2023 với GDP tăng 5,3% chủ yếu do các biện pháp kích cầu của Chính phủ. Thêm vào đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh giai đoạn cuối năm. Nếu tiếp tục đà này, tăng trưởng 7% trong quí 4, GDP Việt Nam có thể tăng 5% cả năm 2023.

    Để đánh giá triển vọng tăng trưởng trong năm 2024 và 2025, chúng ta cần nhìn nhận tổng quan hơn về việc kinh tế có tính chu kỳ, cùng với đó xem xét các vấn đề có tính cơ cấu đang kìm hãm sự phát triển.

    Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt trung bình 5,2%/năm trong giai đoạn đầy biến động 2019-2023. Mức này thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng hiện nay là 5,5-6%. Một số tổ chức quốc tế đã dự báo tỷ lệ tăng trưởng trung bình 5,6%/năm trong giai đoạn 2023-2030. Các ước tính này dựa trên cơ sở lực lượng lao động Việt Nam tăng khoảng 1%/năm, cộng với năng suất lao động tăng 4,5-5%/năm. Việt Nam còn nhiều dư địa và tiềm năng để cải thiện khi năng suất lao động vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Tất nhiên việc này không dễ thực hiện vì khuynh hướng chung của hầu hết các nước trên thế giới là càng ngày càng giảm mức tăng trưởng năng suất lao động.

    Nói chung, mức tăng trưởng của Việt Nam trong một vài năm tới có thể dự báo nằm trong mức tăng trưởng tiềm năng 5,5-6%. Đây cũng là dự báo tăng trưởng của WB, IMF và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).

    Một số người cho rằng tăng trưởng như thế là tốt rồi, tuy thấp hơn Ấn Độ một chút nhưng vẫn cao hơn các nước khác trên thế giới. Tôi cho rằng như thế là phiến diện: kinh nghiệm là các nước con hổ châu Á (kể cả Trung Quốc) đều phát triển rất nhanh trong giai đoạn đầu. Cụ thể là trong hai thập niên trước khi đạt mức GDP/đầu người 10.000 đô la Mỹ, các nước này đã tăng trưởng rất nhanh. Singapore trung bình tăng 9,4%/năm; Đài Loan tăng 8,8%; Hàn Quốc là 8,7% và Trung Quốc là 8,7%... Khi đạt mức phát triển tương đối cao như trên thì tăng trưởng mới bắt đầu chậm lại và vẫn vượt qua ngưỡng cửa 13.205 đô la Mỹ để trở thành nước thu nhập cao (theo xếp hạng của WB). Trung Quốc cũng có khả năng đạt mức này trong thời gian tới.

    So với các nước kể trên, Việt Nam kém hơn nhiều. Trong thập niên đầu sau đổi mới (1990-1999) GDP tăng trưởng trung bình 7,4%/năm; đến thập niên 2000-2009 xuống 6,6%. Đó là tính theo số thống kê cũ, trước khi có sự điều chỉnh năm 2010 tăng GDP lên 25%.

    Nếu Tổng cục Thống kê sửa lại số liệu GDP trước năm 2010 (chưa công bố) để hợp với số liệu sau năm 2010, khi đó, mức tăng trưởng trước năm 2010 còn cao hơn, ít nhất cũng trong khoảng 8-9%/năm. Tuy nhiên sau đó, trên cơ sở số liệu mới, GDP đã tăng trung bình 6%/năm trong thời gian 2010-2022. Điều này có nghĩa là mức tăng trưởng của Việt Nam đã chậm lại từ năm 2010 khi GDP/đầu người chỉ mới 1.684 đô la Mỹ. Trong năm năm gần đây nhất, 2019-2023, thì chỉ còn 5,2%/ năm, khi GDP/đầu người đạt 4.164 đô la Mỹ, một phần là vì tác động của Covid-19. Nói chung, mức tăng trưởng của Việt Nam đã chậm lại khi mới phát triển GDP/đầu người đến mức độ còn thấp. Nếu tăng trưởng “chậm” và “sớm” như thế, Việt Nam khó bắt kịp với các nước con hổ châu Á và nguy cơ tụt hậu sẽ tiếp tục ám ảnh.

    Giải pháp cho Việt Nam

    Để giảm bớt nguy cơ tụt hậu, cần phải nâng cao năng suất lao động. Cụ thể Việt Nam cần phải tiếp tục cải cách kinh tế, hoàn thiện cơ chế thị trường cạnh tranh lành mạnh, không bị lũng đoạn vì sự tham nhũng của các tập đoàn lợi ích; tăng cường hiệu năng của bộ máy hành chính; đào tạo công nhân viên có trình độ kỹ thuật đáp ứng với nhu cầu hiện nay; xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là cho công nghiệp số và công nghiệp xanh, thu hút và sử dụng tốt dòng đầu tư FDI đang được chuyển hướng từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á.

    Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng nhưng chưa được chú ý đúng mức, đó là tình trạng nợ doanh nghiệp phi tài chính đã quá cao.

    Theo Sách Trng Doanh nghip 2023 do Tổng cục Thống kê vừa xuất bản, tỷ lệ dư nợ doanh nghiệp phi tài chính/GDP luôn tăng trong thời gian qua, lên tới 255% trong năm 2021, chủ yếu là nợ trong nước. Trong đó, nợ nước ngoài bằng ngoại tệ chiếm khoảng 10% (hay 103 tỉ đô la Mỹ) tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao nhất thế giới (có tỷ lệ nợ trung bình là 95%).

    Tương tự như Trung Quốc (với tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính/GDP 167%), nợ doanh nghiệp quá cao làm cho thị trường tài chính và nền kinh tế mất ổn định, dễ lâm vào khủng hoảng. Tình trạng nợ doanh nghiệp quá cao rất phức tạp vì cách giải quyết nào cũng có cái giá phải trả. Khuynh hướng hiện nay của Việt Nam là giảm lãi suất, khuyến khích ngân hàng mở rộng việc cho vay, tăng tín dụng cho doanh nghiệp. Làm như thế thì có thể yểm trợ sự hồi phục của ngành bất động sản và kinh tế nói chung trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, cái giá phải trả là tăng thêm mức dư nợ của doanh nghiệp (hiện đã quá cao) và làm tăng nguy cơ khủng hoảng nợ trong tương lai nếu tình hình kinh tế trở nên bất lợi (như lãi suất tăng hay sức cầu và giá bán hàng mặt giảm).

    Ngược lại, việc mạnh dạn thanh lý toàn bộ các món nợ xấu và các doanh nghiệp đã phá sản (giá trị tài sản thấp hơn mức nợ phải trả + vốn chủ sở hữu) sẽ gây cú sốc làm kinh tế chậm lại hoặc suy thoái. Nhưng trong tương lai, điều này có thể lành mạnh hóa bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp và ngân hàng, làm cơ sở để có thể tăng trưởng ổn định và bền vững hơn. 

    Cách giải quyết trung dung của Trung Quốc đáng tham khảo khi nước này đẩy mạnh thanh lý/tái cấu trúc nợ xấu và doanh nghiệp bất động sản phá sản tới mức vừa phải mà nền kinh tế, xã hội có thể chịu được. Đồng thời, nước này kích cầu và yểm trợ có chọn lọc để đảm bảo tăng trưởng tối thiểu và đối phó với cái giá phải trả là tình trạng này có thể kéo dài thêm vài năm nữa. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong năm năm qua cho thấy việc giảm tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính/GDP đòi hỏi phải kiên trì áp dụng các biện pháp giảm tỷ lệ nợ trong thời gian dài. Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nợ từ 163% trong quí 3-2020 xuống 158% trong quí 2-2022; nhưng sau đó đã tăng lên 167% trong quí 3-2023 - phần lớn vì Covid-19.

     Nói tóm lại, cần phải giải quyết tình trạng nợ doanh nghiệp phi tài chính quá cao, nếu không, nền kinh tế luôn luôn bị đe doạ bởi khủng hoảng nợ và tăng trưởng chậm.

    Trần Quốc Hùng

     (*) Kinh tế gia ở Mỹ. Tác giả xin cảm ơn TS. Vũ Quang Việt đã cung cấp tư liệu
    về việc sửa đổi cách tính GDP Việt Nam năm 2010 và tình trạng nợ doanh nghiệp.

    THỐNG KÊ TRUY CẬP
    • Đang online 19
    • Truy cập tuần 5601
    • Truy cập tháng 8811
    • Tổng truy cập 426246