Chuyên gia kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn: Tiền chưa rẻ!

22 Trần Quốc Toản, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp.HCM
Tiêu điểm
Tin tức: BÀI PHÁT BIỂU CỦA THỦ TƯỚNG ISRAEL - Benjamin Netanyahu Thư Giản: Nhớ mưa Sài Gòn... Tiền Tệ : Lượng tiền ngân hàng cho vay vượt huy động Tin tức: Cải cách thể chế nhìn từ cuốn sách “Vì sao các quốc gia thất bại” BĐS: TP.HCM dự kiến không cho phân lô bán nền tại các huyện ngoại thành Tin tức: Bên trong đơn vị UAV mật của Ukraine chuyên tấn công vào lãnh thổ Nga CN & MT: It’s Time To Give Up Hope For A Better Climate & Get Heroic VH & TG: 'Nexus’ - lược sử về những mạng lưới thông tin của loài người Tin tức: Thủ tướng chỉ rõ 2 điểm nghẽn lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long Tin tức: China’s Real Economic Crisis Tin tức: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ,KINH TẾ HAY KHỦNG KHOẢNG CƠ CẤU TOÀN DIỆN VH & TG: Ông Donald Trump, voi và nước xáo CN & MT: ChatGPT: ẢO VỌNG TOÀN NĂNG VÀ TƯƠNG LAI TOÀN TRỊ CN & MT: The planet endures its hottest summer on record — for the second straight year BĐS: Thị trường bất động sản sẽ phục hồi trong giai đoạn 2024 - 2027 CN & MT: AI – nỗi sợ của ‘dân văn phòng’ VH & TG: The Precondition For Global Cooperation VH & TG: Trung Quốc: trẻ thất nghiệp, già lo âu BĐS: Nhiều doanh nghiệp bất động sản đã vượt qua giai đoạn ‘sinh - tử’ CN & MT: Chăm lo nền móng VH & TG: Việt Nam có thể trở thành một trong cửu bá trong thế giới đa cực vào năm 2025 BĐS: Loạt mặt bằng vị trí 'vàng' TP HCM ế khách thuê nhiều năm BĐS: Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa: Tôi mua nhà năm 1990 hết 56 triệu đồng, bây giờ người ta gạ 20 tỷ đồng mà bà xã không chịu bán Thư Giản: Viết cho ngày doanh nhân 13/10 CN & MT: AI Is The Way Out Of Low Growth And Inflation CN & MT: Viễn cảnh 'hàng tỉ người giả' đáng sợ tạo ra nhờ AI VH & TG: Loài người trở nên thông minh như thế nào? Tin tức: Sử gia Harari: Hướng đi của nhân loại đang được quyết định tại Ukraina CN & MT: The Human Cost Of Our AI-Driven Future CN & MT: Việt Nam và Đông Nam Á sẽ hứng chịu mưa lớn bất thường vào cuối năm 2024 do La Nina BĐS: Bức tranh tín dụng bất động sản giai đoạn 2011-2022 Tin tức: Nobel kinh tế 2024 và bài học về thể chế cho Việt Nam CN & MT: Jensen Huang khen Elon Musk siêu phàm CN & MT: Bước tiếp theo cho tên lửa Starship của Elon Musk là gì? CN & MT: Dữ liệu vệ tinh vẽ nên bức tranh tổng thể về biến đổi khí hậu CN & MT: El Nino: Hồi chuông báo tử đe dọa nhân loại đã điểm Tin tức: Việt Nam có quyền lực như thế nào tại châu Á-Thái Bình Dương? CN & MT: Thủy lợi mang lại no ấm cho nông dân Tây Ninh Tin tức: Giải Nobel Kinh tế 2024 CN & MT: Châu thổ đang chìm: vấn nạn nan giải Tin tức: 7-Eleven đóng cửa 444 chi nhánh: Chuyện gì đang xảy ra với chuỗi siêu thị tiện lợi lớn nhất thế giới? Tin tức: Người nhập cư vào TP.HCM giảm mạnh, 'thủ phủ nhà trọ' thưa vắng người thuê Tin tức: Xe điện: Thêm một thảm bại của mô hình ‘chủ nghĩa tư bản nhà nước’ tại Trung Quốc SK & Đời Sống: Nền kinh tế cho người già SK & Đời Sống: Sôi động cuộc đua tìm phương thuốc kéo dài tuổi thọ BĐS: Sau hơn 1 tháng triển khai luật mới: Vẫn nhiều vướng mắc về đất đai BĐS: Shophouse ế ẩm, đóng cửa hàng loạt BĐS: Tiêu điều mặt bằng cho thuê tại TP. HCM BĐS: Giá thuê mặt bằng trung tâm quá cao, người kinh doanh rút về vùng ven TP.HCM Chứng khoán: La Nina hoạt động mạnh từ tháng 8, mưa nhiều chưa từng có, cổ phiếu ngành điện ra sao? BĐS: SO SÁNH TỒN KHO BẤT ĐỘNG SẢN 2015-2022. 10 ông lớn địa ốc tồn kho hơn 40 nghìn tỷ 62015 30.6.2015 BĐS: Những vùng tối của khủng hoảng nhà ở BĐS: Loạt doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu trở lại BĐS: TS. Cấn Văn Lực: “Ai làm bất động sản ở phân khúc nhà phố thương mại thì cần phải quan sát để cơ cấu lại” BĐS: 1 tỷ USD vốn FDI vào nhà đất: Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia... dẫn đầu làn sóng M&A : Nếu không sửa luật, dự án bất động sản sẽ tắc trong 10 năm tới Tin tức: Thời khắc đen tối nhất của Ukraine Tin tức: 3 quyết sách chiến lược để biến Việt Nam thành ‘con hổ kinh tế’ châu Á Tin tức: Đánh thuế bất động sản phải nghiên cứu kỹ, đừng xa rời thực tế Tin tức: Chân dung Blackstone – ‘Gã khổng lồ’ quản lý hơn 1.000 tỷ USD muốn đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam VH & TG: SMARTPHONE VÀ TÔI VH & TG: TÂM LINH VÀ MÊ TÍN VH & TG: Cận cảnh không gian sống của Elon Musk: Người giàu nhất thế giới ở “phòng đóng hộp” 37m2, nội thất tiện nghi kém xa nhà của nhiều người Thư Giản: Mùa nước tràn đồng VH & TG: Vùng Scandinavia, bao gồm các quốc gia như Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch (có thể bao gồm Phần Lan, Iceland) VH & TG: South Korea wakes up to the next K-wave: The 'silver economy' VH & TG: Lý Quang Diệu viết về những ngày cuối đời VH & TG: Bài của Tướng Trì Hạo Điền về mộng bá chủ thế giới của người Hán Tạp chí Các vấn đề chiến lược, Ấn Độ, 15/4/2009 VH & TG: Reagan đã không thắng trong Chiến tranh Lạnh như nhiều người nghĩ Thư Giản: BÍ QUYẾT SỐNG NHẸ NHÀNG  Tiền Tệ : KINH TẾ HOA KỲ NHẬT BẢN VÀ ANH TUẦN NÀY ( 16- 25/9/2024) SẼ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẾ GIỚI VH & TG: Thân phận phụ nữ ở Ấn Độ: Những gánh nặng kinh hoàng BĐS: Thử suy nghĩ BÀI HỌC TỪ TRUNG QUỐC CHO THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM....2024 Thư Giản: 5 câu chuyện Đại chiến lược của Thế giới 2020-2035. VH & TG: Hoàng đế diệt Phật bị quả báo bi thảm: Bài học lịch sử cho nhân loại ngày nay Tiền Tệ : NHNN điều chỉnh room tín dụng: Nhà băng nào hưởng lợi? Thư Giản: Thời kỳ thoái đã bắt đầu từ lâu - Dự báo 60 năm phần 2 Thư Giản: Dự báo 60 năm đầu thế kỷ 21 và hướng đến thế kỷ 22 Chứng khoán: Thời hoàng kim của chứng khoán Việt Nam 2007 Chứng khoán: “Đỉnh và đáy” cũng như “đêm với ngày”: Nhà đầu tư lão làng Charlie Munger tiết lộ triết lý đầu tư chưa khi nào lỗi thời để gặt hái thành công VH & TG: Đại tác giả KIM DUNG NÓI GÌ VỀ KINH PHẬT CHỮ HÁN ? VH & TG: Chuyến thăm lịch sử của Đặng Tiểu Bình và nước đi giúp Trung Quốc “lột xác”, vượt qua láng giềng đáng gờm Thư Giản: Hạn hán lớn nhất thời cổ đại, hoàng đế xin mưa và phép màu khiến muôn dân kinh ngạc VH & TG: Nhân loại trước ngã ba đường? Tiền Tệ : Cơ hội từ khủng hoảng 2008 Tiền Tệ : Tại sao Mỹ sẽ thắng trong cuộc Chiến tranh tiền tệ? Tiền Tệ : Giải bài toán nợ xấu ngân hàng tăng SK & Đời Sống: Sự thật về người đàn ông sống lâu nhất Trung Quốc, thọ xuyên 3 thế kỷ nhờ 1 thần chú ai cũng dễ dàng làm được SK & Đời Sống: 'Chẳng ai muốn chuyển ra Bình Chánh khi công việc còn trong quận 1' Chứng khoán: Thị trường chứng khoán Mỹ chìm trong sắc đỏ trong ngày Thứ hai đầu tuần SK & Đời Sống: Giới nhà giàu Việt chọn môi trường sống “giàu có trong thầm lặng” Chứng khoán: Chứng khoán bay mất 50 điểm, rúng động thị trường 200 tỷ USD SK & Đời Sống: Người già nông thôn – đường dài lệ thuộc con cháu Thư Giản: MỘT VÀI SỰ THẬT VỀ NHỮNG THỜI KỲ KHÓ KHĂN! SK & Đời Sống: Thành phố lớn nhất Việt Nam có hơn 1 triệu người cao tuổi, già hoá dân số nhanh, tuổi thọ trung bình 76,5 tuổi SK & Đời Sống: Đưa cây vào nhà, chăm chúng như con SK & Đời Sống: Phục hưng hành lang thiên nhiên - kinh tế - nhân văn dọc sông Sài Gòn SK & Đời Sống: Nghiên cứu khoa học: Sống gần gũi với thiên nhiên giúp chống lại bệnh tật, tốt cho tâm lý, kéo dài tuổi thọ! Thư Giản: NGHỊCH LÝ KHÔNG THỂ "NGƯỢC ĐỜI" HƠN CỦA NGƯỜI HIỆN ĐẠI Tin tức: CÁI GIÁ CỦA CHIẾN TRANH 2024 BĐS: Thời điểm vàng cho bất động sản hậu khủng hoảng CN & MT: Dự báo của Yuval Noal Harari về những biến đổi chính trị - xã hội trong thời đại số và những giải pháp cho xã hội tương lai CN & MT: Neuromorphic supercomputer aims for human brain scale BĐS: Doanh nghiệp trả mặt bằng hàng loạt BĐS: Mặt bằng 'bình dân' ở TP.HCM: Giảm giá phân nửa, giảm tiền cọc vẫn bỏ trống BĐS: Sóng 'tháo chạy' khỏi mặt bằng tiền tỷ khu vực trung tâm giờ ra sao? CN & MT: Trí tuệ nhân tạo đang thay đổi ngành bán lẻ Tin tức: Hệ lụy gì từ cuộc chiến mới ở Trung Đông? BĐS: Dấu ấn bất động sản quý 3: Những "đốm sáng" trong khó khăn Tin tức: Thế giới bắt đầu thời kỳ cấu trúc lại trật tư thế giới The World Begins to Reorder Itself Tin tức: IMF: Triển vọng kinh tế thế giới mấy năm tới chỉ ở “hạng xoàng” BĐS: Chuyên gia nêu rõ khó khăn lớn nhất của thị trường bất động sản hiện nay Tin tức: Nền kinh tế toàn cầu ra sao khi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng mới trong cuộc chiến Israel-Gaza? Tin tức: Xung đột Israel - Hamas: Người ra mặt và kẻ giấu mặt CN & MT: Nếu Trái đất nóng hơn 2,5 độ so với thời tiền công nghiệp, ĐBSCL sẽ gặp nguy cơ Tin tức: Tỉ phú israel có con gái bị Hamas giết! : Vòm sắt - hệ thống đánh chặn tên lửa thành công hơn 90% của Israel? Tin tức: Thế giới đối mặt cùng lúc 5 căn nguyên của thảm họa và nguy cơ Thế chiến III CN & MT: Toyota chứng minh cho cả thế giới thấy 'không vội làm xe điện' là đúng: 1 startup làm 9 năm vẫn lỗ, càng bán càng không có lãi
Bài viết
Chuyên gia kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn: Tiền chưa rẻ!

    Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Sài Gòn, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, nhận định lãi suất cao hay thấp phải được xác định bằng lãi suất thực tế và tỷ suất lợi nhuận bình quân theo từng ngành kinh tế. Ông cũng đưa ra một vài gợi ý để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận với dòng “tiền rẻ” ổn định trong dài hạn.

    Nghịch lý trước mắt

    KTSG: Thưa ông, từ cuối năm 2023 mặt bằng lãi suất huy động duy trì ở mức thấp trong khi lượng tiền gửi vẫn tăng cao. Hiện tượng ngân hàng “thừa tiền” xuất hiện nhưng đồng thời ngân hàng vẫn là ngành kinh doanh có lợi nhuận kỷ lục trong nền kinh tế. Thực tế này có nên coi là nghịch lý và nó đang phản ánh điều gì trên thị trường tài chính, tín dụng của Việt Nam?

    Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn.

    – Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn: Tỷ suất lợi nhuận của ngành ngân hàng cao hơn mức trung bình của nền kinh tế không phải là một câu chuyện mới. Trong giai đoạn đại dịch Covid-19 trước đây và hiện nay khi kinh tế khó khăn thì vẫn vậy. Đơn giản bởi dù nền kinh tế có trì trệ, doanh nghiệp có ngưng hoạt động đi chăng nữa thì doanh nghiệp vẫn phải trả lãi nợ ngân hàng.

    Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như khoanh nợ, giãn nợ, nhưng rõ ràng đó không phải là miễn lãi hay xóa nợ. Mà nếu Chính phủ có muốn miễn lãi hay xóa nợ cho doanh nghiệp thì vẫn phải tìm cách bù đắp lợi nhuận cho ngân hàng bởi ngân hàng kinh doanh tiền tệ, chịu trách nhiệm trước cổ đông về mục tiêu lợi nhuận. Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, với cổ đông Nhà nước thì Chính phủ có thể lồng ghép chính sách hỗ trợ trong đó nhưng cũng sẽ gây nhiều tranh cãi.

    Đối với ngân hàng Việt Nam thì lợi nhuận chủ yếu đến từ cấp tín dụng, ở đó chênh lệch lãi suất huy động và cho vay định hình mức lãi của ngân hàng. Hiện nay biên lợi nhuận trung bình của hệ thống ngân hàng cao, phản ánh rõ nét lãi suất huy động giảm sâu và nhanh trong khi lãi suất cho vay giảm nhẹ và chậm.

    Thời gian qua, lượng tiền gửi chảy vào ngân hàng rất nhiều dù lãi suất huy động thấp. Lý do là người dân thiếu công cụ đầu tư thay thế nên đó là một lựa chọn khả dĩ trong ngắn hạn. Các doanh nghiệp có dòng tiền nhàn rỗi cũng chưa có nhu cầu tái đầu tư do triển vọng kinh tế chưa tích cực. Cung tiết kiệm trong ngắn hạn dồi dào khiến cho lãi suất huy động của nhiều ngân hàng giảm mạnh, trừ các ngân hàng yếu kém vẫn duy trì lãi suất huy động ở mức tương đối cao để giữ vị thế thanh khoản, đồng thời có động cơ cho vay với lãi suất cao để bù đắp rủi ro.

    Trong khi đó, như đã nói, nhiều doanh nghiệp có dòng tiền thì hoặc là chưa đầu tư hoặc là thoái nợ, còn những doanh nghiệp muốn đi vay để sống sót thì hoặc là phải chịu lãi suất cao hoặc là không thể vay được vốn.

    Rõ ràng đây là nghịch lý đối với thị trường tài chính Việt Nam đã được nói đến từ lâu và nhiều lần, cho thấy nhiều bất cập cả ở hệ thống ngân hàng lẫn thị trường vốn.

    Tôi nghĩ có hai trục trặc chính ở đây: Thứ nhất là hệ thống tài chính Việt Nam đến nay vẫn tiếp tục phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng, vai trò thị trường vốn vẫn còn mờ nhạt. Thứ hai, vẫn còn cấu trúc ngân hàng có tính chất cạnh tranh độc quyền hoặc độc quyền nhóm, trong đó tồn tại một số ngân hàng yếu thực tế đang góp phần chi phối cuộc chơi.

    KTSG: Vậy thì nền kinh tế Việt Nam chưa đến thời kỳ “tiền rẻ” như nhiều nhận định lạc quan gần đây phải không? Theo ông, đâu là những lý do khiến cho doanh nghiệp khó tìm được “tiền rẻ” trong bối cảnh hiện nay?

    – Trước hết để đánh giá “tiền rẻ” hay không thì phải phân tích ba khía cạnh.

    Đầu tiên là xem xét trên lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa. Nếu doanh nghiệp đi vay với lãi suất danh nghĩa 10%/năm nhưng lạm phát trong năm đó lên tới 8% thì lãi suất thực của doanh nghiệp chỉ là 2%. Ngược lại, nếu lãi suất danh nghĩa là 5%/năm nhưng lạm phát chỉ 1% thì lãi suất thực là 4%. Chi phí vốn đối với doanh nghiệp trong giả định đầu thấp hơn một nửa so với giả định sau.

    Hiện nay lạm phát năm 2024 theo dự kiến của Quốc hội và Chính phủ là khoảng 4-4,5%, như vậy nếu một doanh nghiệp đi vay với lãi suất 10% thì lãi suất thực mà doanh nghiệp đó phải trả xấp xỉ 5,5%. Rõ ràng mức lãi suất thực này là khá cao so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Nền kinh tế Việt Nam sẽ khó duy trì sức cạnh tranh quốc tế khi doanh nghiệp trong nước phải trả mức lãi suất thực cao như vậy.

    Thứ hai, rẻ hay đắt là theo đánh giá của người đi vay, ở đây là theo từng doanh nghiệp, theo ngành và theo bối cảnh của nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi nền kinh tế sẽ có tình trạng kinh doanh khác nhau được phản ánh qua chỉ tiêu được gọi là tỷ suất lợi nhuận hay sinh lời của vốn đầu tư.

    Rất khó để tính suất sinh lợi bình quân của vốn trong nền kinh tế và mỗi ngành, mỗi dự án thường có một tỷ suất sinh lợi khác nhau. Do đó doanh nghiệp đi vay sẽ phải so sánh chi phí vốn với suất sinh lợi của vốn để quyết định liệu dự án có hiệu quả hay không.

    Thời gian qua chúng ta thường nói doanh nghiệp không có nhu cầu đi vay chứ không phải ngân hàng không muốn cho vay. Điều này đúng bởi không có ngân hàng nào huy động vốn rồi không muốn cho vay cả. Trường hợp có ngân hàng nào đó không muốn cho vay thì hoặc là do khách hàng không phù hợp khẩu vị rủi ro của ngân hàng hoặc bản thân ngân hàng ưu tiên vốn cho doanh nghiệp quan hệ dạng cộng sinh như trường hợp của SCB.

    Việc doanh nghiệp không đi vay cho thấy suất sinh lợi kỳ vọng của vốn đầu tư giảm trong khi chi phí đi vay lại không giảm tương xứng. Năm 2023 được đánh giá là năm kinh tế khó khăn nhất kể từ sau Covid-19, khi có hơn 172.000 doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường. Theo quy luật cung – cầu thì đến một lúc nào đó lãi suất cho vay sẽ phải giảm, tuy nhiên tùy theo đặc điểm của thị trường vốn hay mức độ kết dính (sticky) của thị trường tài chính mà lãi suất cho vay giảm nhanh hay chậm và giảm đến mức độ nào.

    Thời gian qua chúng ta thấy lãi suất huy động giảm sâu, suất sinh lợi của vốn đầu tư cũng giảm sâu nhưng lãi suất cho vay dù có giảm song vẫn neo tương đối cao, cho thấy thị trường tài chính Việt Nam chưa hiệu quả, lãi suất cho vay khá cứng nhắc.

    Vấn đề thứ ba là vấn đề rủi ro. Thông thường ngân hàng sẽ cho vay với lãi suất cao để bù đắp rủi ro. Những doanh nghiệp rủi ro cao thường phải đi vay với lãi suất cao. Đó là điều tất yếu.

    Tuy nhiên ở đây lại có hai vấn đề. Thứ nhất, có những rủi ro đặc thù của bản thân doanh nghiệp hoặc của ngành nhưng cũng có những rủi ro mang tính hệ thống do môi trường kinh doanh, môi trường chính sách hay rủi ro vĩ mô tiềm ẩn. Trong trường hợp rủi ro hệ thống, vai trò của Chính phủ là phải giảm rủi ro này để giúp giảm rủi ro cho doanh nghiệp, từ đó là cho các khoản vay của ngân hàng. Chừng nào môi trường kinh doanh và chính sách vẫn được đánh giá là rủi ro cao thì doanh nghiệp đi vay khó mà tìm được “tiền rẻ”.

    Thứ hai, do tình trạng bất cân xứng thông tin nên việc ngân hàng định lãi suất cao để bù rủi ro đã vô tình khiến cho ngân hàng chọn người rủi ro cao để cho vay thay vì người ít rủi ro. Chỉ có những hoạt động có tính chất đầu cơ mới có được mức lãi kỳ vọng đủ cao để trả được lãi suất cao. Những doanh nghiệp kinh doanh chân chính rất khó tiếp cận vốn. Dù bản thân ngân hàng cũng đã tìm cách sàng lọc rủi ro khách hàng, song vai trò của Chính phủ trong việc làm giảm tình trạng bất cân xứng thông tin cũng rất quan trọng, đó là những chuẩn mực và yêu cầu về minh bạch và trách nhiệm công bố thông tin.

    KTSG: Vậy trong bối cảnh này, theo ông thì làm thế nào để “tiền rẻ” hơn đối với các doanh nghiệp?

    – Để có “tiền rẻ” ngay tức khắc thì có một cách là NHNN sẽ tái cấp vốn với lãi suất “rẻ” cho các ngân hàng thương mại để họ cho vay lại với lãi suất thấp theo cam kết của điều khoản tái cấp vốn.

    Tuy nhiên chính sách này có hai thách thức ngắn hạn. Một là bản thân nhiều ngân hàng đang thừa tiền, không có nhu cầu vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại. Hơn nữa, việc cho vay lại theo địa chỉ có thể đặt ngân hàng vào rủi ro thu nợ và báo cáo giải trình nên khó khuyến khích ngân hàng tham gia cho vay. Thực tế thời gian qua có một số gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ đã không triển khai được vì lý do này.

    Thứ hai là bản thân NHNN cũng thận trọng khi bơm tiền vì áp lực lạm phát. Có thể nói chưa bao giờ NHNN bị đặt vào một tình thế điều hành chính sách tiền tệ đa mục tiêu với nhiều thức thách như hiện nay.

    Tuy nhiên, NHNN có thể theo đuổi mục tiêu giảm lãi suất bằng cách thúc đẩy một thị trường tiền tệ lành mạnh, cạnh tranh và hiệu quả hơn. Ở đây tôi muốn nói đến các rào cản làm tăng chi phí giao dịch cần được loại bỏ. Một thị trường tiền tệ hiệu quả khi người đi vay có quyền và công cụ tái cấu trúc nợ vay bằng cơ chế thị trường. Khi mặt bằng lãi suất giảm, các doanh nghiệp đương nhiên có nhu cầu muốn tái cấu trúc lại nợ vay theo hướng rẻ hơn, song vì một số lý do mà điều này không thực hiện được.

    Đầu tiên là việc các ngân hàng thiết lập các điều khoản điều chỉnh lãi suất theo hướng có lợi cho mình và hạn chế quyền của doanh nghiệp trong các hợp đồng tín dụng. Đó là khi lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay sẽ lập tức được điều chỉnh tăng, trong khi lãi suất huy động giảm thì có nhiều lý do để ngân hàng chậm điều chỉnh lãi suất cho vay. Dù là hợp đồng thỏa thuận nhưng do tính chất cạnh tranh kém của hệ thống ngân hàng nên ở đây NHNN cần tăng cường giám sát và kịp thời điều tiết các hợp đồng này chứ không nên thả nổi cho cái gọi là thị trường tự điều tiết.

    Hai là khi doanh nghiệp muốn đáo hạn sớm một khoản vay để vay khoản mới có lãi suất thấp hơn thì lại chịu rào cản là phí trả nợ trước hạn. Hiện nay mức phí này dao động từ 2-3%, thậm chí có ngân hàng lên đến 5%, là rất cao. Cái lý của phí trả nợ trước hạn là để giúp ngân hàng giảm rủi ro tái đầu tư, nhưng rủi ro đó đang bị thổi phồng và bị lạm dụng. Trong bối cảnh lãi suất giảm, để giữ chân khách hàng thì ngân hàng có hai lựa chọn, đó là giảm lãi suất hoặc tăng phí trả nợ trước hạn.

    Phương án 1 – giảm lãi suất – là mục tiêu của NHNN nhưng do phương án 2 không bị giới hạn nên ngân hàng sẽ chọn phương án 2. Do đó, NHNN cần giám sát và điều tiết mức phí này để không bị lạm dụng. Khi ngân hàng chỉ có thể chọn phương án 1 để giữ chân khách hàng trong bối cảnh cạnh tranh thì khi đó lãi suất mới không bị xơ cứng, sẽ linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, doanh nghiệp sẽ tăng cơ hội tìm đến các nguồn “tiền rẻ” thay thế.

    Căn nguyên sâu xa và cách hóa giải

    KTSG: Ông nhận định như thế nào về mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 được đề ra là 15%? Điều quan trọng nhất trong câu chuyện này là gì, thưa ông?

    – Tại kỳ họp cuối năm 2023, Quốc hội đã đề ra mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 là 6-6,5%, lạm phát là 4-4,5%. Như vậy, tăng trưởng GDP danh nghĩa khoảng 10-11%, cho nên, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 (tổng giá trị tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế) có khả năng rơi vào khoảng 11% nếu duy trì vòng quay tiền không đổi.

    Hơn một thập niên qua vòng quay tiền ở Việt Nam liên tục suy giảm cho thấy tính hiệu quả của hệ thống tiền tệ đang ngày càng giảm. Điều này cũng cho thấy sức hấp thụ hay năng suất biên của vốn cũng đang có xu hướng giảm về mặt dài hạn. Tăng trưởng cung tiền có liên quan đến tăng trưởng tín dụng và thay đổi dự trữ ngoại hối chính thức. Năm 2023, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10% trong khi tín dụng tăng 13,5%. Năm 2024, sau khi tính thêm nhu cầu cân đối tiền tệ cho mục tiêu điều hành tỷ giá thì về mặt kỹ thuật khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% là trong tầm tay của NHNN.

    KTSG: Thưa ông, tại thời điểm này, liệu chúng ta có nên đặt ra vấn đề doanh nghiệp được tiếp cận “tiền rẻ” một cách ổn định và dài hạn hay chưa? Nếu vậy, nút thắt cơ bản cần được tháo gỡ là gì?

    – Vấn đề quan trọng không phải là tăng trưởng tín dụng bao nhiêu mà là chất lượng tăng trưởng tín dụng thế nào. Nếu tăng trưởng tín dụng 15% mà chủ yếu đi vào các kênh phi sản xuất như đầu cơ bất động sản, vàng và lướt sóng chứng khoán thì không đóng góp gì cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cả, thậm chí còn làm tăng rủi ro bất ổn vĩ mô, gia tăng áp lực lạm phát và đẩy chi phí kinh tế sang cho nền kinh tế thực.

    Hiện các hoạt động kinh tế có tính chất đầu cơ đang hút một lượng vốn không nhỏ của nền kinh tế. Tình trạng ngân hàng cho vay theo nhóm quan hệ dạng sở hữu chéo có thể không chỉ xảy ra ở SCB. NHNN cần tính toán lượng vốn tín dụng chảy vào khu vực có tính chất đầu cơ như vậy và Chính phủ cần có những công cụ điều tiết, kiểm soát các hoạt động đầu cơ này, chẳng hạn như hạn chế tín dụng và đánh thuế lên các giao dịch có tính chất đầu cơ.

    Khi một lượng vốn chảy vào các hoạt động đầu cơ thì phần vốn phân bổ cho những doanh nghiệp sản xuất thực bị ít lại và do đó phải cạnh tranh nhau với mức lãi suất cao hơn. Không những vậy, những nhà đầu cơ thường có khả năng chấp nhận mức lãi suất đi vay cao hơn do suất sinh lợi kỳ vọng của hoạt động đầu cơ cao vì có phí bù rủi ro. Trong khi những doanh nghiệp sản xuất thực thường có mức sinh lợi ổn định theo ngành và theo dự án đầu tư của họ vốn có rủi ro trung bình thấp hơn, do đó không thể cạnh tranh trả mức lãi suất cao để đi vay được.

    Tuy nhiên, do hiệu ứng cánh kéo và cạnh tranh mà những doanh nghiệp sản xuất vẫn phải trả mức lãi suất cao tương đương với những nhà đầu cơ. Những doanh nghiệp này nếu chấp nhận đi vay với lãi suất cao thì hoặc là đang hấp hối buộc phải vay hoặc đi vay rồi cũng sẽ đi đầu cơ mà thôi. Còn những doanh nghiệp kinh doanh bình thường thì ít có khả năng sẽ đi vay với lãi suất cao như thế khi mà suất sinh lợi của vốn đang giảm trong bối cảnh kinh tế khó khăn.

    Nói tóm lại, chừng nào vẫn còn những nhà đầu cơ chấp nhận đi vay với lãi suất cao thì những doanh nghiệp kinh doanh bình thường sẽ còn khó tiếp cận vốn và mặt bằng lãi suất đi vay khó giảm. Thời “tiền rẻ” chỉ là giấc mơ xa xỉ nếu không kiểm soát tốt các hoạt động có tính chất đầu cơ trong nền kinh tế và xử lý triệt để các ngân hàng yếu kém.

    Hoàng Hạnh - Theo TheSaigonTimes

    THỐNG KÊ TRUY CẬP
    • Đang online 59
    • Truy cập tuần 1604
    • Truy cập tháng 2483
    • Tổng truy cập 147906